Đà Nẵng – Wikipedia tiếng Việt


Đà Nẵng

Thành phố trực thuộc Trung ương

Logo-DaNang.png

Biểu trưng


Da Nang Montage.jpg
Biệt danh
Thành phố của những cây cầu,
Thành phố bên sông Hàn,
Đà Thành
Địa lý

Tọa độ: 16°01′55″B 108°13′14″Đ / 16,031944°B 108,220556°Đ / 16.031944; 108.220556Tọa độ: 16°01′55″B 108°13′14″Đ / 16,031944°B 108,220556°Đ / 16.031944; 108.220556
Diện tích
1.285 km²
Dân số (2017)
 
 Tổng cộng
1.064.100 người
 Thành thị
932.400 người
 Nông thôn
131.700 người
 Mật độ
828 người/km²
Dân tộc
người Kinh (99,4%)
Múi giờ
G (UTC+7)







Hành chính
Quốc gia
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam
Vùng
Nam Trung Bộ
Quận trung tâm
Quận Hải Châu
Thành lập
24 tháng 5 năm 1889[1]
Tên cũ
Cửa Hàn, Kẻ Hàn, Turon, Tourane, Thái Phiên
Chính quyền
 
 Chủ tịch UBND
Huỳnh Đức Thơ
 Hội đồng nhân dân
49 đại biểu
 Chủ tịch HĐND
Nguyễn Nho Trung
 Chủ tịch UBMTTQ
Đặng Thị Kim Liên
 Bí thư Thành ủy
Trương Quang Nghĩa
 Trụ sở UBND
Số 24, đường Trần Phú, phường Hải Châu I, quận Hải Châu
Đại biểu quốc hội
6
Phân chia hành chính
6 quận, 2 huyện
Chi tiết
Mã hành chính
VN-60
Mã bưu chính
55xxx...
Mã điện thoại
236
Biển số xe
43
Website
danang.gov.vn

Đà Nẵng là một thành phố thuộc trung ương, nằm trong vùng Nam Trung Bộ, Việt Nam, là trung tâm kinh tế, tài chính, chính trị, văn hoá, du lịch, xã hội, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Đà Nẵng là thành phố quan trọng nhất miền Trung, đồng thời cũng là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam,[2] đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải Phòng và Cần Thơ.

Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của Việt Nam, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không.[3]. Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là "thành phố đáng sống" của Việt Nam.[4][5]. Năm 2018, Đà Nẵng được chọn đại diện cho Việt Nam lọt vào top 10 địa điểm tốt nhất để sống ở nước ngoài do Tạp chí du lịch danh tiếng Live and Invest Overseas (LIO) bình chọn[6].





Địa danh Đà Nẵng (chữ Hán: 沱㶞 hoặc 陀㶞) được nói đến sớm nhất trong sách "Ô Châu cận lục" (烏州近錄, in lần đầu năm 1555) của Dương Văn An (楊文安), quyển 5, "Tự từ" (寺祠, nghĩa là "chùa và đền"), "Thần từ" (神祠, đền thờ thần), "Tùng Giang từ" (松江祠, đền Tùng Giang):


Nguyên văn Hán văn:

松江祠. 祠在思榮縣思客海門,並在廣南陀㶞海門。


Phiên âm Hán Việt:

Tùng Giang từ. Từ tại Tư Vinh huyện Tư Khách hải môn, tịnh tại Quảng Nam Đà Nẵng hải môn.


Dịch nghĩa:

Đền Tùng Giang. Đền ở cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh, còn một đền nữa ở của biển Đà Nẵng, Quảng Nam.


"Đà Nẵng" trong "Ô Châu cận lục" không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển.

Đà Nẵng là một tên dịch theo kiểu dịch âm kiêm dịch ý một phần, địa danh cần dịch đã được dịch bằng chữ Hán có âm đọc (âm Hán Việt) tương cận, ý nghĩa của chữ Hán dùng để dịch có liên quan nhất định với ý nghĩa của tên gọi được dịch. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng tên gọi Đà Nẵng xuất phát từ vị trí nằm ở cửa sông Hàn của thành phố. Đó là một biến dạng của từ Chăm cổ "Da nak", được dịch là "cửa sông lớn".[7][8]

Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu về Chăm là Inrasara và Sakaya đã có những đề xuất khác. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu văn hoá Chăm) cho rằng "Đà Nẵng" là biến dạng của từ Chăm cổ Đaknan. Đak có nghĩa là nước, nan hay nưn, tức Ianưng là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Còn nhà nghiên cứu Sakaya (tức Trương Văn Món) cho rằng "Đà Nẵng" có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, Đakdơng - Đà dơng, có nghĩa là con sông. Đanang trong tiếng Chăm và Raglai cổ, cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia, có nghĩa là "nguồn". "Đà Nẵng" là "sông nguồn"[9].
Nhưng nếu chúng ta xét về phương diện ngôn ngữ Chăm hiện đại, thì trong ngôn ngữ Ê-đê, Gia Rai thuộc nhóm Chamic vẫn còn lưu giữ cách gọi từ cổ như Krông Năng hay Rơ Năng hay Da Năng. Hiện tại, ngay cả một tỉnh đông người Chăm ở Campuchia vẫn giữ cách gọi 1 bến sông của người Chăm là " Kam pong Ch'Năng" và trở thành tên một tỉnh của Campuchia Kampong Chhnang có đông người Chăm sau tỉnh Kampong Cham. Tất các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ "'Da Năng"' thành Ênang, Ch'nang, R'nang trong ngôn ngữ Chăm, Gia Rai, Ê đê, Raglai ngày nay đêu mang nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong Danang tức là Bến sông thanh bình.



Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng, vốn được viết bằng chữ Hán là 蜆港, về sau được đổi thành 峴港. Thời xưa tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Chà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Chà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là "Hiện Cảng" (蜆港), có nghĩa là "bến hến". Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên đã thay chữ "hiện" 蜆 có nghĩa là "con hến" bằng chữ "hiện" 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao.

Một tên gọi khác được đặt cho Đà Nẵng là Cửa Hàn (dịch nghĩa "cửa của sông Hàn"). Theo tác giả Võ Văn Dật thì từ Hàn đã được Việt hóa từ cách đọc theo tiếng Hải Nam của địa danh "Hiện Cảng" 蜆港 là "Hành Càng" hay "Hàn Càng".[10]

Giáo sĩ Buzomi - đến Đà Nẵng năm 1615 - đã gọi nơi này là Porte de Kéan. Bản đồ châu Á do Sanson d'Abbeville vẽ năm 1652 ghi Đà Nẵng là Turaon. Giáo sĩ Christoforo Borri - đến Đà Nẵng năm 1618 - khi viết hồi ký về xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn thì đã gọi Đà Nẵng là Touron. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người từng lui tới Đà Nẵng nhiều lần và đã gọi nơi này là Turon; trong bản đồ của ông ghi là "Kean" ("Kẻ Hàn"; "kẻ" trong "kẻ chợ").[11]

Cho đến giữa thế kỷ XIX, địa danh "Đà Nẵng" vẫn còn là tên gọi của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vũng nước sâu, một "cửa quan" hay một "tấn sở".[12] Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất.[13] Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một "tấn", tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ.[14] Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.[14]


Bản đồ Tourane (Đà Nẵng) thời Pháp thuộc.

Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộc, Tourane là tên chính thức của Đà Nẵng. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt Nam-Chiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết lầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (tour) trên cửa Hàn.[16]

Trong văn hóa dân gian, Vũng Thùng là một tên thông tục khác để đề cập đến Đà Nẵng.[17] Các nhà Nho nói chữ thì gọi là Trà U, Trà A, Trà Sơn hay Đồng Long Loan.[16]

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tourane đổi tên thành Thái Phiên - nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Tuy nhiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giữ nguyên tên cũ của các đơn vị hành chính từ cấp kỳ, thành phố, tỉnh, huyện trong cả nước để tiện việc thông tin liên lạc và công văn giấy tờ. Thành phố trở lại tên gọi cũ Đà Nẵng.[18][19][Ghi chú 1]



Vị trí[sửa | sửa mã nguồn]



Tọa độ phần đất liền của thành phố Đà Nẵng từ 15°15' đến 16°40' vĩ độ Bắc và từ 107°17' đến 108°20' kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông.

Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 766 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 961 km về phía Nam và cách kinh đô thời cận đại của Việt Nam là Thành phố Huế 101 km về hướng Tây Bắc theo đường Quốc lộ 1A.[20]. Đà Nẵng còn là trung điểm của các di sản thế giới: Cố đô Huế, Phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và Myanma.[21] Khoảng cách từ Đà Nẵng đến các trung tâm kinh tế chính của khu vực Đông Nam Á như Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), Singapore, Manila (Philipines) đều nằm trong khoảng 1.000–2.000 km.[22]
Bốn điểm cực trên đất liền của thành phố Đà Nẵng là:



Ngoài phần đất liền, vùng biển của thành phố gồm quần đảo Hoàng Sa (khu vực đang tranh chấp với Trung Quốc và Đài Loan) nằm ở 15°45’ đến 17°15’ vĩ độ Bắc, 111° đến 113° kinh độ Đông, ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi; cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý về phía Nam. Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km². Tổng diện tích phần nổi của quần đảo khoảng 10 km², trong đó đảo Phú Lâm chiếm diện tích lớn nhất (nguồn Việt Nam: khoảng 1,5 km², nguồn Trung Quốc: 2,1 km²[23]). Hoàng Sa án ngự đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản, hải sản, có thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc biển Đông.[24].
Bốn điểm cực của quần đảo Hoàng Sa là:



Địa chất, địa hình[sửa | sửa mã nguồn]


Đồi núi, đồng bằng[sửa | sửa mã nguồn]



Về mặt địa chất, Đà Nẵng nằm ở rìa của miền uốn nếp Paleozoi được biết đến với tên gọi Đới tạo núi Trường Sơn - nơi mà những biến dạng chính đã xảy ra trong kỷ Than đá sớm.[25] Cấu trúc địa chất khu vực Đà Nẵng gồm có năm đơn vị địa tầng chủ yếu, lần lượt từ dưới lên là: hệ tầng A Vương, hệ tầng Long Đại, hệ tầng Tân Lâm, hệ tầng Ngũ Hành Sơn và trầm tích Đệ Tứ. Trong đó các hệ tầng A Vương, Long Đại, Tân Lâm có thành phần thạch học chủ yếu là đá phiến và cát kết. Hệ tầng Ngũ Hành Sơn chủ yếu là đá vôi hoa hóa màu xám trắng. Trầm tích Đệ Tứ bao gồm các thành tạo sông, sông - biển, biển, biển - đầm lầy có tuổi từ Pleistocen sớm đến Holocen muộn, chủ yếu là cát, cuội, sỏi, cát pha, sét pha,...Vỏ Trái Đất tại lãnh thổ thành phố Đà Nẵng bị nhiều hệ thống đứt gãy theo phương gần á vĩ tuyến và phương kinh tuyến chia cắt, làm giảm tính liên tục của đá, giảm độ bền của chúng, nhất là tạo nên các đới nứt nẻ tăng cao độ chứa nước. Đây là hiểm hoạ trong khi xây dựng các công trình.[26]

Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 - 1.500 m, độ dốc lớn (>40o), là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố[27]. Ở khu vực cửa sông Hàn và sông Cu Đê địa hình đáy biển bị phức tạp và tạo ra một số bãi cạn, trũng ngầm (lòng sông).Khu vực cửa vịnh ra ngoài khơi địa hình nhìn chung là nghiêng thoải về phía đông bắc. Khoảng cách các đường đẳng sâu khá đều đặn [28].


Hải đảo[sửa | sửa mã nguồn]


Quần đảo Hoàng Sa gồm hai cụm đảo chính là cụm Lưỡi Liềm ở phía tây và cụm An Vĩnh ở phía đông. Cụm Lưỡi Liềm nằm về phía tây, có hình cánh cung hay lưỡi liềm, bao gồm các đảo là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Ảnh, Quang Hòa, Bạch Quy, Tri Tôn cùng các mỏm đá, bãi ngầm. Cụm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của biển Đông như đảo Phú Lâm, đảo Cây, đảo Linh Côn, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Nam và cồn cát Tây.[29] Nhiều thực thể trong quần đảo biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các rạn san hô vòng Thái Bình Dương, vốn dĩ là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún chìm của vỏ Trái Đất. Hình thái địa hình các đảo tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới có cấu tạo ba phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng. Đa số các đảo nổi có độ cao dưới 10 m.[30]


Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]



























Tháng
Tháng Giêng
Tháng Hai
Tháng Ba
Tháng Tư
Tháng Năm
Tháng Sáu
Tháng Bảy
Tháng Tám
Tháng Chín
Tháng Mười
Tháng Mười Một
Tháng Mười Hai
Mùa
Mưa & lạnh
Khô mát
Khô ấm
Mưa & nóng
Mưa ấm
Mưa bão, lũ lụt & ấm
Mưa bão, mát trời
Mưa, mát trời





Đà Nẵng
Biểu đồ khí hậu (giải thích)






123456789101112












Trung bình tối đa và tối thiểu. Nhiệt độ tính theo °C
Tổng lượng giáng thủy tính theo mm










Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình, nhiệt độ cao và ít biến động. Khí hậu Đà Nẵng là nơi chuyển tiếp đan xen giữa khí hậu cận nhiệt đới ở miền Bắc và nhiệt đới xavan miền Nam, với tính trội là khí hậu nhiệt đới ở phía nam. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12 và mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, thỉnh thoảng có những đợt rét mùa đông nhưng không đậm và không kéo dài.

Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25,8 °C; cao nhất vào các tháng 6, 7, 8, trung bình 28-30 °C; thấp nhất vào các tháng 12, 1, 2, trung bình 18-23 °C. Riêng vùng rừng núi Bà Nà ở độ cao gần 1.500 m, nhiệt độ trung bình khoảng 20 °C. Độ ẩm không khí trung bình là 83,4%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.504,57 mm; lượng mưa cao nhất vào các tháng 10, 11, trung bình 550-1.000 mm/tháng; thấp nhất vào các tháng 2, 3, 4, trung bình 28–50 mm/tháng.[31] Số giờ nắng bình quân trong năm là 2.038 giờ; nhiều nhất là vào tháng 5, 6, trung bình từ 214 đến 247 giờ/tháng; ít nhất là vào tháng 11, 12, trung bình từ 100 đến 130 giờ/tháng. Mỗi năm, Đà Nẵng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ một đến hai cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Năm 2006, Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của bão Xangsane - cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đà Nẵng trong 100 năm qua, gây thiệt hại nặng nề cho thành phố.[31]

Thời gian nắng ở quần đảo Hoàng Sa dao động trong khoảng từ 2.300 đến 2.500 giờ/năm.[31][32] Nhiệt độ không khí tối thấp trung bình ở vùng biển quần đảo là 22°-24 °C trong tháng 1, tăng dần và đạt cực đại trung bình 28.5°-29 °C trong tháng 6 và tháng 7. Chế độ gió vùng quần đảo Hoàng Sa phức tạp và thể hiện ảnh hưởng của địa hình lục địa Việt Nam và Trung Quốc. Gió tây nam chiếm ưu thế vào mùa hè; gió đông bắc chiếm ưu thế trong mùa đông. Lượng mưa trung bình năm ở Hoàng Sa là khoảng 1.300-1.700 mm. Độ ẩm tương đối trung bình 80-85% và hầu như không biến động nhiều theo mùa

































































































































































Dữ liệu khí hậu của Da Nang
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Năm
Cao kỉ lục °C (°F)
32.8
36.8
37.2
41.1
39.4
40.0
38.3
39.0
37.8
36.1
35.0
32.8
41,1
Trung bình cao °C (°F)
25.1
26.1
28.5
31.0
33.1
34.2
34.4
33.9
31.6
29.3
27.1
24.9
29,9
Trung bình ngày, °C (°F)
21.5
22.3
24.2
26.4
28.3
29.2
29.3
29.0
27.5
25.9
24.1
22.1
25,8
Trung bình thấp, °C (°F)
19.1
20.0
21.5
23.5
24.9
25.6
25.4
25.4
24.3
23.3
21.8
19.7
22,9
Thấp kỉ lục, °C (°F)
8.9
7.8
11.1
7.8
18.9
20.0
17.8
21.4
20.9
12.2
7.2
11.1
7,2
Giáng thủy mm (inch)
85
(3.35)
25
(0.98)
20
(0.79)
35
(1.38)
84
(3.31)
90
(3.54)
87
(3.43)
117
(4.61)
312
(12.28)
650
(25.59)
432
(17.01)
216
(8.5)
2.151
(84,69)
% độ ẩm
84.2
83.9
83.5
82.6
79.5
76.5
75.3
77.2
81.9
84.5
84.8
85.5
81,6
Số ngày giáng thủy TB
11.6
6.3
4.1
5.4
9.8
8.7
9.2
11.0
14.4
20.1
20.5
18.3
139,4
Số giờ nắng trung bình hàng tháng
139
145
188
209
246
239
253
218
176
145
120
103
2.182
Nguồn #1: Vietnam Institute for Building Science and Technology[33]
Nguồn #2: Deutscher Wetterdienst[34]

Thủy văn[sửa | sửa mã nguồn]


Hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bắt nguồn từ phía tây, tây bắc và tỉnh Quảng Nam. Có hai sông chính là sông Hàn với chiều dài khoảng 204 km, tổng diện tích lưu vực khoảng 5.180 km² và sông Cu Đê với chiều dài khoảng 38 km, lưu vực khoảng 426 km². Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có các sông khác: sông Yên, sông Chu Bái, sông Vĩnh Điện, sông Túy Loan, sông Phú Lộc,...Các sông đều có hai mùa: mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 8 và mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12.[35] Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.[36]

Nước ngầm của vùng Đà Nẵng khá đa dạng, các khu vực có triển vọng khai thác là nguồn nước ngầm tệp đá vôi Hoà Hải – Hoà Quý ở chiều sâu tầng chứa nước 50–60 m; khu Khánh Hoà có nguồn nước ở độ sâu 30–90 m; các khu khác đang được thăm dò. Đầu năm 2013, do các công trình thủy điện đầu nguồn tích nước không xả nước về vùng đồng bằng, vùng xuôi khiến cho người dân Đà Nẵng phải đối mặt với việc thiếu nước sinh hoạt và nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng.[37] Bên cạnh đó thành phố cũng phải đối phó với tình trạng nguồn nước bị nhiễm mặt hàng năm.[38]

Vùng biển Đà Nẵng có chế độ thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều không đều. Hầu hết các ngày trong tháng đều có hai lần nước lên và hai lần nước xuống, độ lớn triều tại Đà Nẵng khoảng trên dưới 1 m. Dòng chảy ở vùng biển gần bờ có hướng chủ đạo là hướng đông nam với tốc độ trung bình khoảng 20–25 cm/s. Khu vực gần bờ có tốc độ lớn hơn so với khu vực ngoài khơi một chút.[28]


Môi trường[sửa | sửa mã nguồn]


Quá trình mở rộng không gian đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác tài nguyên đất và sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp, du lịch của địa phương đã gây nên những tác động đến môi trường không khí, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của thành phố. Năm 2010, tổng lượng nước thải công nghiệp khoảng 6.835 m³/ngày. Các dự án lấn biển như Khu đô thị Đa Phước, Khu dịch vụ thủy sản Thọ Quang, Khu dịch vụ hậu cần Cảng Đà Nẵng,...có nguy cơ tác độ đến môi trường, hệ sinh thái vùng bờ Đà Nẵng. Kết quả điều tra năm 2006 cho thấy diện tích san hô khu vực ven biển Đà Nẵng không có khả năng phục hồi là 81%.[39] Năm 2012, Khu dịch vụ thủy sản Thọ Quang là điểm nóng nhất về ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố.[40] Chất lượng nước ở các con sông cũng có vấn đề, đặc biệt là vùng hạ lưu, các sông đều bị ô nhiễm bởi một lượng khá lớn coliform, BOD5, COD và chất khác. Trong nội ô thành phố Đà Nẵng, lượng bụi, lưu huỳnh điôxit, tiếng ồn, hóa chất độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép.[41]

Trước tình trạng ô nhiễm môi trường, vào tháng 10 năm 2008, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt đề án "Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường". Đề án được xây dựng trên tiêu chí đến năm 2020, các yêu cầu về chất lượng môi trường đất, chất lượng môi trường nước, chất lượng môi trường không khí trên toàn thành phố được đảm bảo, tạo sự an toàn về sức khoẻ và môi trường cho người dân, các nhà đầu tư, cho du khách trong và ngoài nước khi đến với Đà Nẵng.[42]

























Dân số Đà Nẵng[cần dẫn nguồn]
Năm
Dân số
15002.500
16005.000
170010.000
180012.500
190030.000

Thời Sa Huỳnh và Chăm Pa[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng nằm trong vùng đất xứ Quảng, nơi các cư dân cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã định cư từ hàng nghìn năm trước. Đồng bằng xứ Quảng đã dựng lên một nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Người Sa Huỳnh không chỉ là những cư dân nông nghiệp mà còn đi biển và có hoạt động giao thương bằng đường biển khá phát triển. Tại di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kỳ Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3.000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kỳ Chăm Pa sớm, cách đây gần 2.000 năm.[43][44]

Khi nhà nước Chăm Pa ra đời, vùng đất Đà Nẵng thuộc về tiểu quốc Amaravati. Tại tiểu quốc này đã có ít nhất hai vương triều là Lâm Ấp và Indrapura tồn tại. Những dấu tích của thời kỳ Chăm Pa còn biểu hiện khá đậm nét qua các di tích từ miếu thờ tín ngưỡng ở Đình Dương Lâm (Xã Hòa Phong) chỉ thờ ngẫu tượng Linga - Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn như lũy đất Thành Lồi, phế tích của các tháp Chăm như tháp Quá Giáng, tháp Xuân Dương và tháp Phong Lệ. Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một số hiện vật Chăm Pa như bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn,... thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Ngoài ra còn có các giếng cổ Chăm Pa phân bố rải rác ở nhiều địa phương.[45][46] Cuộc khai quật di tích Chăm ở làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ) năm 2012 với việc phát hiện nền tháp chăm có kích thước lớn nhất từ trước đến nay đã đưa đến giả thuyết: "rất có thể hơn 1.000 năm trước, vùng đất này là một trung tâm kinh tế, đô thị sầm uất hoặc là nơi giao thương qua lại".[47][48]


Thời Đại Việt[sửa | sửa mã nguồn]


Trong nửa sau của thế kỷ thứ X, các vua của vương triều Indrapura đã xung đột với Đại Việt.[49] Năm 982, ba sứ thần mà Lê Hoàn (người sáng lập ra nhà Tiền Lê) gửi đến Chăm Pa đã bị bắt giữ. Lê Hoàn đã quyết định mở một cuộc tấn công vào vương quốc Indrapura và giết chết vua Chăm Parameshvaravarman I. Như một kết cục của sự thất bại, người Chăm cuối cùng đã bỏ rơi Indrapura vào khoảng năm 1000.[50]

Vào năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), Vua Trần Anh Tông sai đổi tên châu Ô và châu Lý thành châu Thuận và châu Hoá.[51]. Đà Nẵng từ đây là phần đất thuộc châu Hóa[52], và từ sau 1446 thì Đà Nẵng thuộc địa phận của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa.[52] Sau khi sáp nhập vào Đại Việt, vùng Đà Nẵng trở vào vẫn là miền biên viễn, luôn bị quấy nhiễu và cướp phá. Vào năm 1470, Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến mũi Nạy (giữa Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay) thì vùng đất này mới được bình ổn và bắt đầu có những cuộc khai phá mở mang. Những cư dân Việt đến sinh sống ở vùng này đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố của văn hóa Chăm Pa để hòa nhập vào văn hóa Việt.[53]


Bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku, có thuyết cho rằng hình ảnh cửa biển trong hình chính là cửa Đà Nẵng[54].

Thời các Chúa Nguyễn, vùng đất này đã được khai phá và trở nên trù phú thịnh vượng; các thương nhân cùng tàu thuyền nước ngoài thường xuyên ra vào mua bán, trao đổi hàng hóa.[55] Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền. Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.[56]

Thời kỳ các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ ra đóng ở quần đảo Hoàng Sa, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm đem về nộp cho triều đình.[57][58] Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.[59]

Đà Nẵng trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn trở thành vùng tranh chấp dữ dội và đã chứng kiến những trận đánh quyết liệt của quan quân nhà Nguyễn trong cuộc tấn công vào cửa Đà Nẵng và Đại Chiêm. Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh Đà Nẵng.[60]


Thời nhà Nguyễn[sửa | sửa mã nguồn]



Bản đồ Đà Nẵng năm 1859.

Với vị trí chiến lược quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của kinh đô Phú Xuân, Đà Nẵng là một quân cảng và một thương cảng quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt. Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng.[61] Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện).[62] Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.[63]

Năm 1835, khi Vua Minh Mạng có dụ: "...tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái... Từ nay về sau, người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào các cửa biển khác..."[64] thì Đà Nẵng trở thành hải cảng chính thức và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển. Vua Thiệu Trị cũng đặc biệt quan tâm đến việc an ninh cảng biển tại Đà Nẵng và đưa ra những quy định chặt chẽ quản lý người phương Tây đến buôn bán tại đây.[63]

Nhà Nguyễn tiếp tục thực thi nhiều chính sách khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình.[65] Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Ngay từ giai đoạn 1843-1857 thì mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp đã trở nên nóng bỏng.[66] Tháng 3 năm 1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu Gloire cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Sang ngày 15 tháng 4 năm 1847, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế[67] và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh.[68] Giữa tháng 9 năm 1856, tàu Catinat do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối. Ngày 28 tháng 9, phía Pháp cho tàu Catinat nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Việt Nam.[69] Tính chung suốt từ 1843 đến 1857, Pháp đã sáu lần gửi chiến hạm đến Đà Nẵng.[70]


Thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn]


Quân Pháp tấn công Đà Nẵng, 1858.

Bản đồ thành phố Đà Nẵng (Tourane) năm 1908 (trừ bán đảo Sơn Trà không được thể hiển trong bản đồ).

Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng.[71] Ngày 25 tháng 8 năm 1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.[72].

Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.[73] Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha.[74] Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam.[1]. Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó.[75] Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế[76]. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.[75] Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.[77] Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã.[78] Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.[72][77][Ghi chú 2]

Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.[76] Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926.[79] Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng.[80] Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.[81]

Trong thời gian này, người Pháp vẫn tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa. Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (và quần đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Pháp.[82] Từ năm 1925, Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang đã thực hiện các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa. Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và tiến hành dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm vô tuyến, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa cùng một trạm khí tượng nữa trên đảo Phú Lâm.[83] Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié thành lập đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa.[84] Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú Hoàng Sa.[83]


Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]


























Dân số Đà Nẵng
Năm
Dân số
190030.000
195450.000
1964150.000
1967228.674[85]
1972457.979[86]
1975500.000

Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[87] Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.[87]

Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh[88]. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...[56]

Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một thị trưởng đứng đầu.[89] Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.

Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam.[90] Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam.[91] Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.[92]

Sau Hiệp định Genève, quần đảo Hoàng Sa được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 174-NV quy thuộc quần đảo này vào tỉnh Quảng Nam và thiết lập tại đó một đơn vị hành chính lấy tên là xã Định Hải thuộc quận Hòa Vang.[93]. Sau khi đã kiểm soát được nhóm đảo An Vĩnh từ trước, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào [ngày 19] tháng 1 năm 1974 khi quân đội của họ tấn công quân đồn trú Việt Nam Cộng hòa và chiếm nhóm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây.[94]


Từ 1975 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]


Tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng[sửa | sửa mã nguồn]


Sau khi hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung, Xuân Hà. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2.


Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương[sửa | sửa mã nguồn]


Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế thì quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc và Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung ương[95]. Ngày 23 tháng 1 năm 1997, 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê được thành lập[96]. Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1[97] cùng với Hải Phòng. Năm 2005, một phần huyện Hòa Vang (xã Hòa Thọ, Hòa Phát và Hòa Xuân) và quận Hải Châu (phường Khuê Trung) được tách ra và thành lập nên quận mới là quận Cẩm Lệ[98].

Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, những năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình. Từ năm 2001, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện chương trình "Thành phố 5 không": không hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có cướp của, giết người.[99] Sau kết quả ban đầu của chương trình "Thành phố 5 không", Đà Nẵng lại tiếp tục với chương trình "3 có" - có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.[100] Các chương trình này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đã tạo thành mục tiêu để chính quyền thành phố phấn đầu và tạo được niềm tin đối với người dân. Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, Đà Nẵng luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn bình quân chung của Việt Nam. GRDP bình quân đầu người năm 2015 là 2.908 đô la Mỹ gần gấp đôi so với 2010[101], trong khi trung bình cả nước là 2.109 đô la Mỹ.

Với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã liên tục đưa ra những tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1994, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.[102] Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng và sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Huyện Hoàng Sa được xác định có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là quần đảo Hoàng Sa nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km). Cuối tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Điều 1 đã khẳng định lại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.[103] Ngày 4 tháng 7 năm 2012, kỳ họp thứ 4 Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.[104].



Cầu Rồng bắc qua sông Hàn

Đà Nẵng khi mới hình thành theo quy hoạch của người Pháp được chia thành hai khu vực rõ rệt. Khu người Pháp (quartier français) nằm ở trung tâm thành phố, chiều dọc từ đầu Quai Coubert (nay là đường Bạch Đằng) đến ngã ba Quai Coubert – Đồng Khánh (nay là Hùng Vương), chiều ngang đến đường Marc Pourpre (Lê Lợi). Khu bản xứ (quartier indigène) là nơi người Việt sinh sống gồm phần lớn diện tích còn lại của thành phố.[105] Nếu như khu người Pháp có đại lộ tráng nhựa và đường dành cho đi dạo rợp bóng cây thì khu người bản xứ lại là một khu chen lẫn giữa nhà cửa lụp xụp và nhà khá giả, đường nhựa và đường rải đá, đường đất.[106] Quai Courbet giữ vai trò là đường xương sống của Tourane thời Pháp thuộc, chạy từ bắc xuống nam dọc theo tả ngạn sông Hàn. Dọc theo đường này có nhiều công trình kiến trúc từ thời Pháp thuộc, cũng là điểm xuất phát để từ đó người Pháp mở rộng thành phố về hướng tây và hình thành những đường phố có khoảng cách gần như đều nhau[107]. Tuy nhiên, Pháp chỉ chú ý đầu tư xây dựng bên tả ngạn.[108][Ghi chú 3]

Sau năm 1975, thành phố đã đầu tư cho quy hoạch đôi bờ sông Hàn với những công viên, đường đi dạo dọc hai bờ sông, nhiều cây cầu tiếp nhau nối liền hai bờ đông tây. Sông Hàn trở thành "chiếc ban công" thể hiện bộ mặt đô thị Đà Nẵng. Các dự án bất động sản hàng trăm triệu đô la Mỹ được đầu tư xây dựng hai bên sông Hàn, đặc biệt trong khu vực trung tâm với các công trình quy mô rất lớn tạo điểm nhấn cho thành phố.[109] Khách sạn Novotel Sông Hàn cao 155m, hiện đang được xem là tòa nhà cao nhất miền Trung Việt Nam. Cầu Rồng với hệ thống phun nước, phun lửa được xem là con rồng thép lớn nhất thế giới.[110] Không gian đô thị Đà nẵng cũng được quy hoạch theo hướng hướng ra sông, ra biển để tạo không gian tốt cho kinh tế phát triển. Thành phố đã phát triển nhanh các đô thị mới quy mô 500 - 1.000 ha, hình thành các khu công nghiệp thân thiện môi trường và triển khai nhiều dự án bất động sản.[111]

Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 2357/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu phát triển Đà Nẵng thành thành phố cấp quốc gia, hiện đại; tầm nhìn đến năm 2050, xây dựng và phát triển Đà Nẵng trở thành thành phố đặc biệt cấp quốc gia, hướng tới đô thị cấp quốc tế và phát triển bền vững. Theo đồ án quy hoạch chung đến năm 2030, đồ án xác định đến năm 2030 dân số Đà Nẵng là 2,5 triệu người. Diện tích đất xây dựng đô thị sẽ phát triển tương ứng là 37.500 ha. Như vậy, so với hiện nay thì dân số và diện tích đất xây dựng đô thị sẽ tăng hơn 2,5 lần.[112] Trong định hướng phát triển, thành phố Đà Nẵng sẽ mở rộng về các hướng tây bắc, nam và đông nam.[113] Thành phố đặc biệt chú trọng đến việc quy hoạch trên nền tảng không gian xanh, thân thiện với môi trường. Cơ sở hạ tầng giao thông ngầm với các bãi đỗ xe ngầm và tàu điện ngầm cũng nằm trong mục tiêu quy hoạch của thành phố.[114]



Chính quyền[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, được xếp vào đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành (năm 2013) tối thiểu đạt 87,3% so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh, cao nhất trong 5 Thành phố trực thuộc Trung ương[115].

Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân Thành phố Đà Nẵng là cơ quan quyền lực nhà nước ở thành phố do người dân thành phố trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa IX nhiệm kỳ 2016–2021 gồm 49 đại biểu. Kỳ họp thứ nhất của HĐND thành phố ngày 16/06/2016 đã bầu ra Thường trực HĐND gồm 7 người và bầu ra Chủ tịch HĐND, thường đồng thời là Bí thư Thành ủy thành phố. Chủ tịch HĐND thành phố hiện tại là ông Nguyễn Nho Trung.

Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, do HĐND bầu ra và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của HĐND thành phố. UBND Thành phố nhiệm kỳ khóa IX (2016-2021) được HĐND Thành phố nhiệm kỳ 2016-2021 bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch UBND thành phố. Chủ tịch UBND Thành phố đương nhiệm là ông Huỳnh Đức Thơ.

Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng (hay thường gọi là Thành ủy Thành phố Đà Nẵng) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ. Thành ủy Thành phố Đà Nẵng khóa XXI nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 52 ủy viên chính thức, bầu ra Thường vụ Thành ủy gồm 15 thành viên. Đứng đầu Đảng ủy thành phố là Bí thư Thành ủy do chính Thành ủy thành phố bầu ra hoặc do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phân công và chỉ định, là một Ủy viên Trung ương Đảng. Bí thư Thành ủy Thành phố Đà Nẵng hiện tại là ông Trương Quang Nghĩa.

Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Thành phố nhiệm kỳ X (2014 - 2019) gồm 90 ủy viên[116], bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 13 người[117]. Chủ tịch UBMTTQ đương nhiệm là bà Đặng Thị Kim Liên, Ủy viên của Thường vụ Thành ủy thành phố, Bí thư Đảng đoàn.


Đơn vị hành chính[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng có 8 đơn vị hành chính, gồm 6 quận và 2 huyện (trong đó huyện đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép) với tổng diện tích là 1285,4 km². Với 56 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 45 phường và 11 xã[118]. Ngoại trừ quận Cẩm Lệ, năm quận còn lại của thành phố đều giáp biển. Dự kiến thành phố sắp thành lập thêm hai quận mới trên cơ sở chia tách huyện Hòa Vang thành quận Hòa Vang và quận Bắc Hòa Vang[119]; sáp nhập một số phường của quận Sơn Trà trên đất liền với huyện đảo Hoàng Sa.

































































Ðơn vị hành chính cấp Huyện
Quận
Cẩm Lệ
Quận
Hải Châu
Quận
Liên Chiểu
Quận
Ngũ Hành Sơn
Quận
Sơn Trà
Quận
Thanh Khê
Huyện
Hòa Vang
Huyện
Hoàng Sa
Diện tích (km²)
36
23
75
40
60
9.5
707,07
305
Dân số (người)
143.632
221.324
170.153
115.872
173.455
205.341
185.223
0
Mật độ dân số (người/km²)
3990
9623
2309
2897
2891
21.615
262
0
Số đơn vị hành chính
6 phường
13 phường
5 phường
4 phường
7 phường
10 phường
11 xã
0 xã
Năm thành lập
2005
1997
1997
1997
1997
1997
1997
1997
Số liệu năm 2018, chưa tính cư dân không đăng kí cư trú


Cơ cấu kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]


Sau ngày chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng còn lại gần như nguyên vẹn nhưng quy mô ngành công nghiệp vẫn nhỏ bé, đồng thời đất đai ven thành phố bị bỏ hoang.[120] Trải qua kế hoạch năm năm 1976-1980, thành phố đạt được một số thành tựu như công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 14,7%/năm, tổ chức khai hoang được 700 ha đất,...[121] Tổng kết kế hoạch năm năm 1981-1985 kế tiếp, sản lượng công nghiệp thành phố trong năm 1985 tăng 47% so với năm 1982; số thu ngân sách năm 1985 gấp 5,3 lần so với năm 1983.[122] Tuy vậy, giai đoạn 1986-1990 chứng kiến khó khăn chung của cả nền kinh tế, trong đó có kinh tế Đà Nẵng. Giá trị sản xuất công nghiệp bị sụt giảm, năm 1990 chỉ bằng 95,5% so với năm 1985; một số cơ sở phải dừng hoạt động hoặc giải thể; số lượng xí nghiệp quốc doanh sụt từ 64 còn 59.[123] Từ sau năm 1991, kinh tế thành phố dần đi vào ổn định và tăng trưởng. Bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1998 là 15,6%/năm, cao hơn trung bình của cả nước.[123] Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, GDP bình quân giai đoạn 1997-8/2000 tăng 9,66%/năm;[124] tỉ lệ đói nghèo giảm từ 8,79% của năm 1997 xuống còn hơn 2% vào năm 2000.[125] Năm 2003, Đà Nẵng chiếm 1,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn Việt Nam, tăng so với mức 1,31% của năm 1996 (năm cuối cùng còn thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng).[126] Cũng trong năm này, tổng sản phẩm nội địa (GDP) của thành phố đạt 4.822,3 tỷ đồng Việt Nam, tăng 1,86 lần so với năm 1997 (giá so sánh 1994).[126]. Từ năm 2015-2020, Đà Nẵng phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,5 - 7%/năm[127]. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn năm 2012 là 46,3686 tỷ đồng.[128]

Lực lượng lao động của thành phố năm 2005 là 386.487 người đến năm 2010 đã tăng lên 462.980 người, chiếm 49,14% dân số. Đây là nguồn cung đảm bảo cho nền kinh tế phát triển, nhất là chất lượng lao động ngày một tăng; tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 37% năm 2005 tăng lên 50% năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 25,5% năm 2005 lên 37% năm 2010.[129] GDP của thành phố Đà Nẵng năm 2010 đạt 10.400 tỷ đồng. Năm 2012, đạt 14.230 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2011 [130]. GDP bình quân đầu người năm 2011 ước đạt 2283 USD, gấp 2,2 lần so với năm 2005 và bằng 1,6 lần mức bình quân chung của Việt Nam. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn năm 2012 ước đạt hơn 26 nghìn tỷ đồng. Sau 15 năm luôn vượt chỉ tiêu thu ngân sách thì vào năm 2012, Đà Nẵng hụt thu ngân sách hàng nghìn tỷ đồng[131][132] và đang phục hồi trở lại. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2015 là 14.789 tỷ đồng, trong đó thu nội địa 12.233,5 tỷ đồng đạt 133,2% dự toán Trung ương, 129,6% dự toán địa phương và bằng 133,3% so với năm 2014[133][134].

Đà Nẵng có nền kinh tế khá đa dạng bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp cho tới dịch vụ, du lịch, thương mại, trong đó dịch vụ, du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế thành phố. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2011 là 51%, công nghiệp - xây dựng là 46% và nông nghiệp là 3%.[135]. Đến năm 2020, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng trong GDP từ 62-65%, công nghiệp-xây dựng 35-37%, nông nghiệp 1-3%. Đà Nẵng cũng là nơi đặt hội sở của Tập đoàn Sun Group (Công ty Cổ phần Tập đoàn Mặt trời) được thành lập năm 2007 và hiện nay tập đoàn có nhiều dự án lớn trên khắp các tỉnh thành của đất nước.



Công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]


Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 20%/năm.[76] Thuỷ sản, dệt may, da giày, cao su,... là những lĩnh vực mũi nhọn được tập trung phát triển. Bên cạnh đó, thành phố còn chú tâm đến ngành Công nghệ thông tin (Công viên Phần mềm Đà Nẵng, Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng, Khu công nghệ cao quốc gia Đà Nẵng), ngành công nghệ sinh học (Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng). Đà Nẵng còn chủ trương ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch phục vụ mục tiêu "Xây dựng Đà Nẵng – Thành phố môi trường". Năm 2008, chính quyền thành phố đã từ chối hai dự án FDI sản xuất thép và giấy với tổng vốn đăng ký lên đến 2,5 tỷ đô la Mỹ.[136] Thành phố đề ra mục tiêu trở thành một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam, trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.


Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]


Về thương mại, thành phố có 30 trung tâm thương mại và siêu thị. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm. Đà Nẵng hiện có hai chợ lớn nhất nằm ở trung tâm thành phố là chợ Hàn và Chợ Cồn cùng những siêu thị lớn mới mở trong vòng vài năm trở lại đây như Metro, BigC, Vincom, Parkson, Lotte Mart, Co.opMart, Intimex, Viettronimex, Nguyễn Kim...[137]


Tài chính - Ngân hàng[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng là trung tâm tài chính lớn, trên địa bàn thành phố tính đến năm 2010 có 55 chi nhánh ngân hàng cấp 1, hơn 200 phòng, điểm giao dịch, Quỹ tiết kiệm và 10 đại lý, chi nhánh công ty chứng khoán, các tổ chức cho thuê tài chính, công ty mua bán nợ...[138]


Năng lực cạnh tranh[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đứng đầu Việt Nam liên tiếp trong ba năm 2008, 2009, 2010, 2013, 2014, 2015 và 2016 đồng thời đứng đầu về chỉ số hạ tầng và xếp thứ tư về môi trường đầu tư. Trong bảng xếp hạng PCI của Việt Nam năm 2012, Đà Nẵng xếp ở vị trí thứ 12 trên 63 tỉnh, thành.[139][140] Năm 2013, Đà Nẵng đã trở lại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng. Năm 2014, 2015 và 2016, Đà Nẵng tiếp tục giữ vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng, năm thứ ba liên tiếp trụ vững ngôi đầu bảng và lần thứ bảy thành phố này dẫn đầu cả nước kể từ khi chỉ số này được công bố kể từ năm 2006. Năm 2011, Đà Nẵng có 36 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 318,9 triệu đô la Mỹ. Năm 2012, con số này là 33 dự án với tổng số vốn đăng ký 124,09 triệu đô la Mỹ, giảm hơn 60% so với năm 2011.[141]



Bãi biển Đà Nẵng với bãi cát mịn chạy dài

Đà Nẵng là một thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, là trung tâm du lịch lớn của cả nước. Phía bắc thành phố được bao bọc bởi núi cao với đèo Hải Vân được mệnh danh là "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Phía tây là khu du lịch Bà Nà nằm ở độ cao trên 1000m với hệ thống cáp treo đạt bốn kỷ lục thế giới (dài nhất, độ chênh lớn nhất, tổng chiều dài cáp dài nhất và sợi cáp nặng nhất)[142] cùng khu vui chơi giải trí trong nhà Fantasy Park lớn nhất Đông Nam Á và khu làng Pháp lớn nhất Việt Nam. Phía đông bắc là bán đảo Sơn Trà với 400 ha rừng nguyên sinh[143] gồm nhiều động thực vật phong phú. Phía đông nam là danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trên địa bàn thành phố còn có một hệ thống các đình, chùa, miếu theo kiến trúc Á Đông, các nhà thờ theo kiến trúc phương Tây như Nhà thờ Con Gà,...các bảo tàng mà tiêu biểu nhất là Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm. Đây là bảo tàng trưng bày hiện vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam.

Đà Nẵng đã xây dựng các sự kiện du lịch lớn, trong đó Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng được tổ chức liên tục từ năm 2008. Vào tháng 5 năm 2012, Đà Nẵng lần đầu triển khai Cuộc thi dù bay Quốc tế.[144] Tháng 6 là sự kiện "Điểm hẹn mùa hè" thường niên, quy tụ những hoạt động giải trí biển.[145] Ngoài ra thành phố còn được bao bọc bởi 3 di sản văn hóa thế giới: Huế, Hội An, Mỹ Sơn. Xa hơn một chút nữa là Vườn Quốc gia Bạch Mã, và di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Vì thế Đà Nẵng được xem là điểm trung chuyển quan trọng trên Con đường di sản miền Trung.

Ước tính tổng lượng khách đến tham quan, du lịch Đà Nẵng năm 2016 đón 5,51 triệu lượt khách, trong đó, khách quốc tế ước đạt 1,66 triệu lượt, khách nội địa ước đạt 3,84 triệu lượt, tổng thu từ du lịch ước đạt 16.000 tỷ đồng[146]. Năm 2017, tổng lượng khách đến tham quan, du lịch đón 6,6 triệu lượt khách, trong đó, khách quốc tế ước đạt 2,3 triệu lượt, khách nội địa ước đạt 4,3 triệu lượt, tổng thu từ du lịch ước đạt 19.403 tỷ đồng[147]. Năm 2016, Đà Nẵng lọt vào TOP 10 điểm đến nghỉ dưỡng hàng đầu châu Á do độc giả Tạp chí Smart Travel Asia bình chọn[148]. Năm 2018, Đà Nẵng cũng đã lọt danh sách những điểm đến nên ghé thăm trước khi trở nên quá nổi tiếng trên trang Business Insider[149]. Tính đến năm 2017, Đà Nẵng có 689 cơ sở lưu trú với khoảng 28.821 phòng lưu trú[150], trong đó khoảng trên 16.402 phòng lưu trú ven biển thuộc các khách sạn 3 đến 5[151] sao như Furama (198 phòng), Sandy Beach (123 phòng), Tourane (69 phòng), Công đoàn (125 phòng), cụm ba khách sạn Mỹ Khê (142 phòng)... Tính đến đầu năm 2013, Đà Nẵng có 60 dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch với tổng vốn 4.004 triệu đô la Mỹ.[152] Trong đó có 13 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1.457 triệu đô la Mỹ và 47 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn 2.546 triệu đô la Mỹ.[153]



Du thuyền 5 Legend Of The Seas cập Cảng Đà Nẵng

Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng

Đà Nẵng nằm ở trung độ của Việt Nam, trên trục giao thông huyết mạch Bắc - Nam về cả đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Thành phố còn là điểm cuối trên Hành lang kinh tế Đông - Tây đi qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam.


Hệ thống cảng biển[sửa | sửa mã nguồn]


Với một vị trí đặc biệt thuận lợi về giao thông đường biển, Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) là một cảng biển lớn của miền Trung.[154] Cảng Đà Nẵng có độ sâu trung bình từ 15 – 20 m, có khả năng tiếp nhận các tàu lớn có trọng tải đến 28.000 tấn. Đến tháng 12 năm 2012, cảng đã đạt 4.092.373 tấn, tăng 15,14% so với cùng kỳ năm 2011[155]. Thành phố cũng đang xúc tiến xây dựng cảng Liên Chiểu và đưa vào sử dụng vào năm 2025. Trong tương lai, khi cảng Liên Chiểu với công suất 20 triệu tấn/năm được xây dựng xong thì hệ thống cảng Đà Nẵng được nối liền với cảng Kỳ Hà, cảng Dung Quất ở phía nam sẽ trở thành một cụm cảng liên hoàn lớn, giữ vị trí quan trọng trên tuyến hàng hải Đông Nam Á và Đông Bắc Á.[156].


Đường không[sửa | sửa mã nguồn]


Sân bay quốc tế Đà Nẵng là một trong ba sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam (sau Nội Bài và Tân Sơn Nhất. Đường hàng không Đà Nẵng có thể nối trực tiếp với Singapore, Bangkok, Đài Bắc, Quảng Châu, Hồng Kông, Seoul, Tokyo,... Từ khi được đầu tư nâng cấp và xây mới nhà ga vào năm 2010, Sân bay quốc tế Đà Nẵng với 36 quầy thủ tục và các tiện nghi hiện đại khác đã đảm bảo phục vụ 4 triệu lượt khách/năm và từ 6-8 triệu lượt khách/năm từ năm 2015 trở đi, tiếp nhận 400.000 - 1.000.000 tấn hàng/năm.[157] Sân bay đã có kế hoạch nghiên cứu mở rộng nhà ga để đạt mức 10 triệu hành khách/năm vào năm 2020.[158] Tính đến tháng 4 năm 2017, bên cạnh các đường bay nội địa đến các thành phố lớn của Việt Nam, sân bay này mới chỉ có một số ít các đường bay quốc tế.[159]


Đường sắt[sửa | sửa mã nguồn]



Tuyến đường sắt huyết mạch Bắc - Nam chạy dọc thành phố với tổng chiều dài khoảng 30 km. Trên địa bàn thành phố hiện nay có năm nhà ga, trong đó Ga Đà Nẵng là ga chính của thành phố, hàng ngày tất cả các chuyến tàu ra Bắc vào Nam đều dừng tại đây với thời gian khá lâu để đảm bảo cho lượng khách lớn lên xuống tàu. Cơ sở hạ tầng tại ga được đầu tư hiện đại; môi trường an ninh và vệ sinh được đảm bảo. Ngoài các chuyến tàu Bắc - Nam, Ga Đà Nẵng còn có thêm những chuyến tàu địa phương đáp ứng lượng khách rất lớn giữa các tỉnh, thành Đà Nẵng - Hà Nội, Đà Nẵng - Huế, Đà Nẵng - Quảng Bình, Đà Nẵng - Vinh, Đà Nẵng - Quy Nhơn, Đà Nẵng - TP. Hồ Chí Minh.[160].


Đường bộ[sửa | sửa mã nguồn]



Thành phố Đà Nẵng kết nối với các địa phương trong nước thông qua hai đường quốc lộ: Quốc lộ 1A, nối Đà Nẵng với các tỉnh ở hai đầu Bắc, Nam và Quốc lộ 14B nối Đà Nẵng với các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Tây Nguyên của Việt Nam. Việc đưa vào sử dụng hầm đường bộ Hải Vân khiến cho thời gian lưu thông được rút ngắn và giảm tại nạn giao thông trên đèo Hải Vân.[161] Ngày 30 tháng 4 năm 2017, hầm chui phía tây cầu Sông Hàn chính thức thông xe sau 7 tháng thi công, giúp giảm ùn tắc giao thông nút giao tây cầu sông Hàn, nhất là trên các tuyến đường Trần Phú và Lê Duẩn.[162]


Giao thông đô thị[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng cũng đã có những bước tiến trong giao thông nội thị. Hạ tầng giao thông nội ô được xây dựng khá hoàn chỉnh với mạng lưới giao thông tiếp nối với các đường vành đai của thành phố khiến cho Đà Nẵng là một trong ít đô thị ở Việt Nam ít khi phải đối mặt với tình trạng tắc đường.[163] Nhiều con đường cũ đã được mở rộng và kéo dài. Đường Hoàng Sa - Võ Nguyên Giáp - Trường Sa chạy dọc bờ biển theo hướng nam nối Đà Nẵng với Hội An được mệnh danh là "con đường 5" của Đà Nẵng vì là nơi tập trung hàng loạt khu nghỉ dưỡng cao cấp 4 và 5 đạt tiêu chuẩn quốc tế.[164]. Nhiều cây cầu đã xây dựng bắc qua Sông Hàn như cầu Thuận Phước, cầu sông Hàn, cầu Nguyễn Văn Trỗi, cầu Trần Thị Lý, Cầu Rồng,...không chỉ tạo nên những cảnh quan đẹp phục vụ du khách tham quan thành phố mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tiết giao thông.


Tên đường phố Đà Nẵng trước năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]


Đường Cường Để nay là đường Đống Đa.

Đường Gia Long nay là đường Lý Tự Trọng.

Đại lộ Quang Trung và Đống Đa nay là đường Quang Trung.

Đường Nguyễn Hoàng nay là đường Hải Phòng.

Đại lộ Thống Nhất nay là đường Lê Duẩn.

Đại lộ Hùng Vương và Đồng Khánh nay là đường Hùng Vương.

Đường Trần Hưng Đạo nay là đường Nguyễn Thái Học.

Đường Thành Thái nay là đường Trần Quốc Toản.

Đường Hàm Nghi nay là đường Lê Hồng Phong.

Đường Phan Thanh Giản nay là đường Hoàng Văn Thụ.

Đường Lê Đình Dương nay là đường Nguyễn Văn Linh.

Đường Lý Thái Tổ nay là đường Điện Biên Phủ.

Đường Võ Tánh nay là đường Núi Thành.

Đại lộ Độc Lập nay là đường Trần Phú.

Đường Duy Tân và Nguyễn Tri Phương nay là đường Nguyễn Chí Thanh.

Đường Tự Đức và Nguyễn Thị Giang nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đường Đông Kinh Nghĩa Thục và Yersin nay là đường Ngô Gia Tự.

Đường Khải Định và Ông Ích Khiêm nay là đường Ông Ích Khiêm.




Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]


Người Đàng Trong tại Đà Nẵng thời Tây Sơn - Tranh của họa sĩ người Anh William Alexander


Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, thành phố Ðà Nẵng có 684.846 người. Trong đó, dân số trong độ tuổi lao động xã hội toàn thành phố là 413.460 người, chiếm 57,7% dân số. Tính đến năm 2011, dân số toàn thành phố Đà Nẵng đạt gần 951.700 người,[167] mật độ dân số đạt 740 người/km².[168] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 828.700 người,[169] dân số sống tại nông thôn đạt 123.000 người.[170] Tính đến năm 2015, dân số Đà Nẵng sinh sống ở thành thị là 897.993 người và ở nông thôn là 130.845 người, ngoài ra thành phố còn tiếp nhận thêm lượng dân cư từ các tỉnh, thành là sinh viên, công nhân lao động, người nước ngoài... đến thành phố học tập và làm việc nên tỷ lệ dân nhập cư ngày càng tăng. Dân số nam của thành phố đạt 505.965 người[171], trong khi đó nữ đạt 522.873 người[172]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 1,27%[173]. Đà Nẵng cũng là địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất miền Trung-Tây Nguyên: 87%.

Dân số Đà Nẵng tăng trưởng ở mức từ 2,5% và 3% trong hầu hết các năm từ năm 2005 tới 2011, cao hơn trung bình toàn quốc là 1% đến 1,2%. Cá biệt tỷ lệ tăng trưởng đã tăng lên 3,6% trong năm 2010 trước khi trở lại 2,68% trong năm 2011. Đây là tốc độ tăng trưởng nhanh thứ ba trong cả nước sau Bình Dương (4,41%) và Đồng Nai (3,5%). Tỷ lệ tăng dân số của thành phố năm 2015 là 1,1%. Di cư là yếu tố chủ đạo trong tăng trưởng dân số của thành phố ít nhất là từ năm 2009. Tăng trưởng dân số tự nhiên của thành phố cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước. Tuổi thọ trung bình đạt 77,4 tuổi đối với nữ và 72,4 hoặc 74,8 tuổi đối với nam. Trong tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở mức 9,9 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 trẻ.[167]

Trên địa bàn thành phố có trên 37 dân tộc và người nước ngoài cùng chung sống.[174] Trong đó, nhiều nhất là dân tộc Kinh với 883.343 người, người Hoa đông thứ hai với 1.684 người, dân tộc Cơ Tu có 950 người, cùng các dân tộc ít người khác như dân tộc Tày với 224 người, Ê Đê với 222 người, Mường có 183 người, Gia Rai có 154 người...ít nhât là các dân tộc Chơ Ro, Hà Nhì, Si La và Ơ Đu chỉ có một người.[175]

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn thành phố có chín tôn giáo khác nhau, chiếm 164.195 người. Trong đó, nhiều nhất là Phật giáo với 117.274 người, xếp thứ hai là Công giáo với 39.802 người, đạo Tin Lành có 3.730 người, Cao Đài có 3.249 người. Cùng các tôn giáo khác như Minh Sư Đạo với 53 người, Bahá'í với 34 người, Phật giáo Hòa Hảo với 25 người, Hồi giáo có 19 người, ít nhất là Bà La Môn chỉ với 9 người.[175] Đà Nẵng là nơi có Hội thánh Tin Lành đầu tiên ở Việt Nam được thành lập vào năm 1911 bởi các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp (CMA).[176]


Y tế[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng là một trong những trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Hệ thống y tế của thành phố ngày càng hiện đại, hoàn chỉnh và đồng bộ từ tuyến thành phố đến quận, huyện và xã, phường. Theo con số của Tổng cục Thống kê (Việt Nam) thì vào năm 2011, thành phố Đà Nẵng có 69 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 12 bệnh viện, 1 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng và 56 trạm y tế[177]. Tính đến đầu năm 2015, Đà Nẵng có tỷ lệ 15,8 bác sĩ/10.000 dân, 66,15 giường/10.000 dân, số giường bệnh trực thuộc sở Y tế là 5.762 giường, thuộc các bệnh viện của Bộ ngành Trung ương là 1.490 giường. Cũng theo thống kê năm 2011, Đà Nẵng có 746 bác sĩ, 342 y sĩ, 756 y tá và 275 nữ hộ sinh.[178]

Đà Nẵng cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển: Tháng 3 năm 2012, thành phố thành lập giải thưởng "Tỏa sáng blouse trắng" nhằm tuyên dương những cá nhân người tốt, việc tốt.[179] Đến cuối năm 2012, Đà Nẵng đã hoàn thành mục tiêu Bảo hiểm y tế toàn dân, với 91,6% dân số tham gia Bảo hiểm y tế, đi trước 2 năm so với cả nước (2014). Trong tương lai, với sự hình thành của trường Đại học Y Dược - Đại học Đà Nẵng, Trung tâm Tim Mạch - Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh viện Đà Nẵng cơ sở 2, bệnh viện quốc tế, Viện Nhi Trung ương[180]...trên địa bàn, thành phố Đà Nẵng đang hướng đến mục tiêu trở thành một trung tâm y tế lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.


  • Bệnh viện Đà Nẵng: quy mô 1.250 giường (đường Hải Phòng, quận Hải Châu) tiền thân là Trung tâm Y tế toàn khoa Đà Nẵng được thành lập trước năm 1945.

  • Bệnh viện Phụ sản – Nhi: quy mô 900 giường bệnh (đường Lê Văn Hiến, quận Ngũ Hành Sơn)

  • Bệnh viện Ung Bướu: quy mô 500 giường (đường Phùng Hưng, quận Liên Chiểu)

  • Bệnh viện Da Liễu: quy mô 100 giường (đường Dũng sĩ Thanh Khê, quận Thanh Khê)

  • Bệnh viện Mắt (đường Phan Đăng Lưu, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi (đường Nguyễn Huy Tưởng, quận Liên Chiểu)

  • Bệnh viện Y học Cổ truyền (đường Trần Thủ Độ, quận Cẩm Lệ)

  • Bệnh viện C Đà Nẵng – Bộ Y tế (đường Hải Phòng, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Giao thông vận tải Đà Nẵng (đường Hoàng Văn Thái, quận Liên Chiểu)

  • Bệnh viện Quân y 17 (đường Nguyễn Hữu Thọ, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện 199 – Bộ Công An (đường Nguyễn Công Trứ, quận Sơn Trà)

  • Bệnh viện Tâm thần (đường Nguyễn Lương Bằng, quận Liên Chiểu)

  • Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi Chức năng (đường Quang Trung, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng (đường Võ Nguyên Giáp, quận Ngũ Hành Sơn)

  • Bệnh viện Hải Châu (đường Cao Thắng, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Phụ nữ (đường Chu Văn An, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Đà Nẵng (đường Nguyễn Văn Linh, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Đa Khoa Vĩnh Toàn (đường Lê Duẩn, quận Hải Châu)

  • Bệnh viện Đa Khoa Bình Dân

  • Bệnh viện Đa Khoa Tâm Trí Đà Nẵng

  • Bệnh viện Gia đình Đà Nẵng

  • Bệnh viện Đa Khoa Quốc tế Vinmec: quy mô 178 giường

...


Giáo dục - Đào tạo[sửa | sửa mã nguồn]


Khuôn viên Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng


Đà Nẵng là một trung tâm giáo dục và đào tạo chất lượng cao lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, một trong ba trung tâm giáo dục đại học của cả nước. Hiện nay trên địa bàn thành phố có 15 trường đại học, học viện; 18 trường cao đẳng; 50 trường trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề; 175 trường học ở cấp phổ trong đó Trung học phổ thông có 17 trường[181], Trung học cơ sở có 54 trường, Tiểu học có 100 trường, hai trường Phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 136 trường mẫu giáo[182] với 1.249 lớp học, 2.422 giáo viên và 37,8 nghìn học sinh.[183] Khác với các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng chỉ có 1 trường Trung học phổ thông chuyên. Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn Đà Nẵng luôn là một trong các trường dẫn đầu ở khu vực miền Trung và trong cả nước. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông của thành phố năm học 2010-2011 là 96,7%.[184] Chất lượng giáo dục có sự chênh lệch giữa khu vực trung tâm và ngoại ô đã khiến cho các trường trong trung tâm trở nên quá tải. Từ năm học 2013-2014, ủy ban nhân dân thành phố có văn bản quy định đến năm 2015-2016, các trường tiểu học phải có 100% học sinh học hai buổi/ngày, nếu có khả năng mới được tiếp nhận học sinh ngoại tuyến.[185]

Năm 2016, Đà Nẵng có 139.755 sinh viên, trong đó sinh viên công lập là 85.528 chiếm 80.9%.[186]. Theo thống kê năm học 2016-2017 của Vụ giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Đà Nẵng có số lượng trường đại học lớn thứ ba với quy mô của giáo dục đại học chiếm 4,2% trên cả nước, chỉ sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên giảng viên thì chỉ có 3,8% so với toàn quốc, quy mô sau đại học chiếm 3% toàn quốc nhưng giảng viên có trình độ tiến sĩ chỉ 2,9% trên toàn quốc, giảng viên có trình độ tiến sĩ/giảng viên ở mức trung bình của toàn quốc là 22,7%, nhưng còn tính tổng các trường đại học ở Đà Nẵng thì chỉ đạt 17,4%, còn về phân luồng đại học thì tỷ lệ người dân Đà Nẵng muốn đi học đại học cao, so với năm thành phố trực thuộc Trung ương thì Đà Nẵng là 89%, đứng thứ hai sau Thành phố Hồ Chí Minh[31]. Theo Đề án phát triển Đại học Đà Nẵng đến năm 2020 đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt thì sắp tới trên địa bàn thành phố sẽ có thêm một số trường đại học viện nghiên cứu được thành lập như: Đại học Quốc tế Việt-Anh (nâng cấp từ Viện nghiên cứu và đào tạo Việt - Anh trên cơ sở Tuyên bố chung của hai chính phủ Việt Nam và Vương quốc Anh), trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt Hàn, trường Đại học Y Dược (Nâng cấp từ khoa Y - Dược hiện nay cùng với Trung tâm Y Khoa trực thuộc), Đại học Mở, Viện Đào tạo Sau đại học. Tổng diện tích của làng Đại học Đà Nẵng sẽ là 300 ha với mục tiêu xây dựng Đại học Đà Nẵng trở thành một trong ba trung tâm đại học lớn của cả nước theo Nghị Quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị nhưng đến nay mới có gần 50 ha được xây dựng tại khu vực dự án.

Các trường Đại học và phân viện tại Đà Nẵng[sửa | sửa mã nguồn]



































































































































































Tên trường đại học
Viết tắt
Khối ngành hoặc nhóm đào tạo
Thành lập
Địa chỉ
Đơn vị chủ quản
Loại hình
Ghi chú
Đại học Bách khoa
DUT
Kỹ thuật
1975
Q. Liên Chiểu
Đại học Đà Nẵng
Công lập
Đại học Bách khoa là một trong các trường kỹ thuật đa ngành hàng đầu Việt Nam, một trong ba trường Đại học Bách khoa của cả nước cùng với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại học Kinh tế
DUE
Kinh tế
1975
Q. Ngũ Hành Sơn
Đại học Đà Nẵng
Công lập
Đại học Kinh tế là một trong các trường chuyên đào tạo về kinh tế và thương mại hàng đầu Việt Nam cùng với Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Đại học Sư phạm
UED
Sư phạm
1975
Q. Liên Chiểu
Đại học Đà Nẵng
Công lập

Đại học Ngoại ngữ
UFL
Ngoại ngữ
1985
Q. Hải Châu
Đại học Đà Nẵng
Công lập
Đại học Ngoại ngữ là một trong những cơ sở đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ, một trong ba trường Đại học ngoại ngữ của Việt Nam cùng với Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ Huế
Đại học Sư phạm Kỹ thuật
UTE
Kỹ thuật, Sư phạm Kỹ thuật
1962
Q. Hải Châu
Đại học Đà Nẵng
Công lập

Khoa Y Dược – Đại học Đà Nẵng
SMP
Y, Dược
2007
Q. Ngũ Hành Sơn
Đại học Đà Nẵng
Công lập

Khoa Công nghệ thông tin và truyền thông - Đại học Đà Nẵng
SICT
Công nghệ thông tin
2017
Q. Ngũ Hành Sơn
Đại học Đà Nẵng
Công lập

Đại học Kỹ thuật Y Dược
DHKTYDUOCDN
Kỹ thuật Y, Dược
1963
Q. Hải Châu
Bộ Y tế
Công lập

Đại học Thể dục Thể thao
UPES3
Thể thao
1977
Q. Thanh Khê
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Công lập
Đại học Thể dục Thể thao Đà Nẵng là một trong những cơ sở đào tạo chuyên ngành đội ngũ cán bộ thể dục, thể thao, một trong ba trường Đại học thể dục, thể thao của Việt Nam cùng với Trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh và Trường Đại học Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh
Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III
HCMA3
Hành chính học, quản lý nhà nước
1949
Q. Sơn Trà
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Công lập

Phân viện Đại học Mở Hà Nội
HOU
Đa ngành
1994
Q. Hải Châu

Công lập

Phân viện Đại học Xây dựng Miền Trung
MUCE
Xây dựng
2016
Q. Liên Chiểu

Công lập

Đại học Kiến trúc
DAU
Xây dựng, kiến trúc, quy hoạch
2006
Q. Hải Châu

Tư thục
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng là một trong ba trường Đại học chuyên ngành về kiến trúc của Việt Nam.
Đại học FPT
FPT
Công nghệ thông tin
2006
Q. Liên Chiểu

Tư thục

Đại học Duy Tân
DTU
Đa ngành
1997
Q. Thanh Khê

Tư thục

Đại học Đông Á
DONGA
Đa ngành
2009
Q. Hải Châu

Tư thục

Trường Đại học Mỹ tại Việt Nam
AUV
Đa ngành
2016
Q. Ngũ Hành Sơn

Tư thục

Các trường Cao đẳng và Cao đẳng nghề tại Đà Nẵng[sửa | sửa mã nguồn]


Các trường công lập trực thuộc Đại học Đà Nẵng, các Bộ ban ngành, thành phố



Các trường tư thục


  • Trường Cao đẳng Bách Khoa Đà Nẵng.

  • Trường Cao đẳng Công nghệ Và Kinh doanh Việt Tiến.

  • Trường Cao đẳng Dân Lập Kinh Tế Kỹ thuật Đông Du Đà Nẵng.

  • Trường Cao đẳng Lạc Việt.

  • Trường Cao đẳng Phương Đông Đà Nẵng.

  • Trường Cao đẳng Tư Thục Đức Trí.


Hiện nay trên địa bàn của thành phố có các tổng lãnh sự quán phục vụ cho việc đối ngoại thành phố góp phần mở rộng giao thương, hợp tác với các quốc gia như:



Ngoài ra Bộ ngoại giao và thành phố đang xúc tiến mở thêm các Tổng lãnh sự quán của các quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Hàn Quốc,[189] Nhật Bản,[190] Úc. Bên cạnh đó thành phố đang có các văn phòng đại diện tại Nhật Bản như Tokyo, Yokohama và đang xúc tiến mở thêm văn phòng tại Sapporo, Nagasaki, Fukuoka, Okinawa.[190]



Báo chí[sửa | sửa mã nguồn]


Là một trong trung tâm truyền thông quan trọng của Việt Nam, lớn thứ ba cả nước, đặc biệt đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên, hiện Đà Nẵng có hơn 110 cơ quan báo chí trong đó có tám đơn vị báo chí thành phố, bốn cơ quan báo chí trung ương đóng trên địa bàn thành phố và 98 văn phòng đại diện báo chí trung ương, hội, đoàn thể và địa phương khác có tòa soạn, đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú hoạt động tác nghiệp, với hơn 800 người làm báo, trong đó 400 nhà báo được cấp thẻ; mật độ nhà báo, phóng viên đứng đầu cả nước[191]. Các cơ quan báo chí của thành phố bao gồm: Báo Đà Nẵng, Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng (với hai kênh DanangTV1 và DanangTV2), Báo Công an Đà Nẵng. Có 4 tạp chí là: Tạp chí điện tử Thông tin và Truyền thông (ICT Đà Nẵng), Tạp chí Khoa học và Phát triển, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Tạp chí Văn hóa và Du lịchTạp chí Non Nước. Cơ quan đại diện báo chí trung ương ở Đà Nẵng có: Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng, Trụ sở chính và tổng khống chế của kênh truyền hình quốc gia khu vực miền Trung-Tây Nguyên VTV8, Thông tấn xã Việt Nam tại Đà Nẵng và nhiều cơ quan báo, đài khác[192].


Hoạt động xuất bản[sửa | sửa mã nguồn]


Trong những năm qua, hoạt động xuất bản của thành phố có nhiều biến động,[193] thị trường xuất bản thu hẹp. Đà Nẵng nằm xa thị trường sách lớn của cả nước nên không có lợi thế cạnh tranh. Ước tính năm 2012, các nhà xuất bản phát hành khoảng 25,6 triệu cuốn sách và xuất bản phẩm; sản lượng in đạt 10 tỷ trang khổ 13x19 cm.[194] Nhà xuất bản Đà Nẵng đã có những đóng góp quan trọng cho hoạt động xuất bản của cả nước.[195] Năm 2008, nhà xuất bản bị đình chỉ hoạt động trong ba tháng[196] nhưng phải đến sau gần sáu tháng, nhà xuất bản mới được hoạt động trở lại.[197]
Năm 2010, Công viên phần mềm Đà Nẵng đi vào hoạt động tòa nhà 21 tầng số 2 Quang Trung, diện tích sàn 20.000 m2[198]. Khi đó, đây là cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin quy mô, hiện đại nhất thành phố nhưng hiện nay đã lấp đầy và trở nên nhỏ bé trước nhu cầu phát triển vũ bão. Hiện nay, công viên phần mềm Đà Nẵng là một trong những khu công nghệ thông tin hoạt động hiệu quả nhất của cả nước, với tỷ lệ sử dụng đạt hơn 99% diện tích. Tính đến tháng 6 năm 2017, công viên phần mềm Đà Nẵng có 75 doanh nghiệp đang hoạt động, thu hút vốn đầu tư hơn 1.520 tỷ đồng[199].


Công nghệ thông tin[sửa | sửa mã nguồn]


Hạ tầng[sửa | sửa mã nguồn]


Tòa nhà Công viên phần mềm Đà Nẵng

Đà Nẵng xác định công nghệ thông tin là ngành mũi nhọn, khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế trong tương lai, xây dựng Thành phố thông minh và có những phát triển vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu phần mềm năm 2017 ước đạt 67 triệu USD, doanh thu đạt 14.400 tỷ đồng[200], tập trung chủ yếu vào các thị trường Nhật Bản, Bắc Mỹ, Châu Âu... Với thế mạnh toàn diện về hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và sự quan tâm sát sao của chính quyền, Đà Nẵng là một trong ba địa phương trọng tâm của cả nước sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được ưu tiên đầu tư các khu Công nghệ thông tin tập trung theo Quy hoạch tổng thể phát triển khu Công nghệ thông tin tập trung đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025.


Phối cảnh dự án khu đô thị FPT City Đà Nẵng.

Khu Công viên phần mềm Đà Nẵng có quy mô 10.885,6 m², ra đời vào năm 2000, có chức năng tập trung các hoạt động nghiên cứu phát triển, đào tạo, sản xuất và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ, cung cấp hạ tầng, cung ứng dịch vụ Công nghệ thông tin cho các tổ chức, doanh nghiệp. Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận Khu công viên phần mềm Đà Nẵng được là Khu công nghệ thông tin tập trung[201]. Đà Nẵng cũng đang thúc đẩy phát triển và đẩy nhanh tiến độ các dự án nhằm cải thiện hạ tầng, thu nhà đầu tư như: Khu Công nghệ thông tin Đà Nẵng, Khu công viên phần mềm số 2 (do Công ty Sembcorp Development làm chủ đầu tư), Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng...
Đà Nẵng cũng là nơi tuyến cáp quang biển Asia-Pacific Gateway (APG) cập bờ chạy qua các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam có khả năng cung cấp băng thông tới 54 Tbps[202].


Chính quyền điện tử[sửa | sửa mã nguồn]


Đà Nẵng đã hoàn thành cơ bản và đưa vào vận hành các hạng mục chính của Hệ thống thông tin chính quyền điện tử từ thành phố đến phường, xã. Hiệu quả của hệ thống này trong phục vụ người dân, doanh nghiệp và phát triển kinh tế-xã hội được thể hiện qua các đánh giá Đà Nẵng đứng đầu chỉ số ICT Index (9 năm liên tiếp từ nằm 2009 đến 2017) cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế khác. Đến nay, Đà Nẵng đã triển khai được một số ứng dụng thông minh cấp thiết như hệ thống quản lý xe buýt công cộng qua thiết bị giám sát hành trình, hệ thống điều khiển giao thông và camera thông minh, hệ thống giám sát nước tại nhà máy nước Cầu Đỏ, giám sát nguồn nước hồ, điều khiển máy bơm thoát nước tự động, cổng góp ý, hệ cơ sở dữ liệu mở...



Các địa điểm văn hóa, giải trí[sửa | sửa mã nguồn]



Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm

Trên địa bàn thành phố hiện nay có khá nhiều điểm vui chơi, văn hóa giải trí. Trên cơ sỏ một nhà hát cũ đã xuống cấp, Nhà hát Trưng Vương được xây mới và khánh thành năm 2006 với sức chứa hơn 1.200 chỗ ngồi. Đây là nơi thường xuyên tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống như tuồng, cải lương và nghệ thuật sân khấu hiện đại như: vũ kịch, múa ba lê, opera, nhạc giao hưởng,...các hội thảo, hội nghị và các sự kiện văn hóa lớn của thành phố.[203]

Dành cho sân khấu tuồng ở thành phố có Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh tiền thân là Đoàn tuồng giải phóng Quảng Nam.[204] Nhà hát mang tên nhà sáng tác, người nghệ sĩ và người thầy - Nguyễn Hiển Dĩnh, người có công lớn trong hoạt động nghệ thuật tuồng Việt Nam.[205] Nhà hát vẫn duy trì lịch biểu diễn vào thứ 4 và thứ 7 hàng tuần.[206] Năm 2001, thành phố đã đầu tư 6 tỷ đồng để nâng cấp nhà hát.

Cho đến năm 2013, Đà Nẵng có năm bảo tàng bao gồm: Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Đà Nẵng, Bảo tàng Khu V và Bảo tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh Quân khu V), Bảo tàng Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng. Trong số đó, Bảo tàng Điêu khắc Chăm có tiền thân là Bảo tàng Chàm được Trường Viễn Đông Bác Cổ cho xây dựng từ 1915-1916 đến năm 1936 mới hoàn tất. Bộ sưu tập nguyên thủy là do nhà khảo cổ Henri Parmentier thu thập từ thế kỷ XIX.[207] Không gian của toà nhà bảo tàng gần 1.000 m² với 500 hiện vật được bố trí trưng bày trong các phòng chủ đề khác nhau[208]. Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng là một trong ba bảo tàng về mỹ thuật của cả nước và cùng là nơi lưu giữ và tổ chức trưng bày, giới thiệu đến công chúng các tác phẩm mỹ thuật có chất lượng nghệ thuật và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống của các họa sĩ, nhà điêu khắc, nghệ nhân ở Đà Nẵng và các tỉnh, thành khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Hiện nay, Bảo tàng Lịch sử thành phố Đà Nẵng đang được xây dựng trong khu vực Thành Điện Hải với mặt bằng trưng bày hơn 2.000 m². Thành phố cũng dự kiến xây dựng Bảo tàng Hải dương học.[209]

Về hệ thống thư viện, năm 2012, thành phố có 3/8 quận, huyện và 13/56 xã có thư viện, 22 tủ sách tại các thôn, tổ dân phố... Hầu hết các thư viện đều ở trong tình trạng chật hẹp, nghèo nàn về đầu sách và không thu hút được người đọc. Riêng Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng hiện có khoảng 180.000 bản sách/68.000 tên, trong đó đặc biệt có 3000 bản có giá trị cao nhưng đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.[210] Dự án xây dựng công trình Thư viện Khoa học tổng hợp với tổng vốn đầu tư hơn 280 tỷ đồng được phê duyệt vào năm 2010 và đưa vào hoạt động năm 2015 có thể đáp ứng nhu cầu cho người đọc ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp[211].

Đà Nẵng có nhiều rạp chiếu phim. Rạp chiếu phim CGV Cinemas nằm trong tòa nhà Vinh Trung Plaza gồm 6 phòng chiếu và 854 ghế ngồi được khai trương từ ngày 3 tháng 7 năm 2008[212]. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2015, CGV Cinemas đã khai trương thêm một rạp chiếu phim tại Vincom Đà Nẵng. Ngoài ra còn có các rạp khác như Lotte Cinema Đà Nẵng nằm trên tầng 5 và 6 của khu trung tâm mua sắm Lotte Mart với bốn phòng chiếu riêng biệt; Galaxy Cinema nằm trong siêu thị Co.opmart; Starlight nằm ở tầng 4 của chợ Siêu thị Đà Nẵng. Với ưu thế về công nghệ, trang bị hiện đại, nên lượng khán giả đổ về hai rạp này ngày càng nhiều. Trong khi đó, rạp phim Lê Độ (rạp chiếu phim lâu đời nhất ở Đà Nẵng) và Cinema Fafilm rất vắng người vì không gian nhỏ, chất lượng âm thanh và hình ảnh kém. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Đà Nẵng. Lớn nhất Đà Nẵng là vũ trường New Phương Đông nằm ở quận Hải Châu.

Công viên châu Á - Asia Park Đà Nẵng do Tập đoàn Sun Group làm chủ đầu tư có diện tích 868.694 m² bên bờ Tây sông Hàn bao gồm ba khu vực chính: công viên giải trí ngoài trời hiện đại, công viên văn hóa với các công trình kiến trúc và nghệ thuật thu nhỏ mang tính biểu trưng của 10 quốc gia châu Á và khu Sun Wheel - nơi giao thoa giữa nét hiện đại và truyền thống. Công viên giải trí tại Asia Park mang đến hàng loạt trò chơi độc đáo như tàu lượn siêu tốc, tàu điện trên cao, tháp rơi tự do, máng trượt tốc độ cao…mang đến cho du khách và người dân nhiều trải nghiệm thú vị. Công viên văn hóa mở ra một không gian phương Đông qua từng nét văn hóa đa dạng, các công trình kiến trúc lịch sử và những hoạt động nghệ thuật, ẩm thực độc đáo của 10 quốc gia châu Á: Nhật Bản, Indonesia, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nepal, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và Việt Nam[213].

Công viên 29/3 nằm trên đường Điện Biên Phủ với diện tích 20 ha chủ yếu là nơi những người dân đến tập thể dục và đi dạo. Năm 2010, khu công viên trên bãi biển Phạm Văn Đồng được Hội đồng nhân dân Thành phố ra nghị quyết đặt tên "Công viên Biển Đông". Đây còn được xem là "Công viên hòa bình" với đàn chim bồ câu hơn 1.000 con, là nơi nhiều đôi uyên ương chọn làm địa điểm chụp ảnh cưới và là địa điểm tổ chức lễ hội của thành phố[214]. Hiện nay, thành phố đang chủ trương xây dựng một số công viên có quy mô lớn như công viên vui chơi giải trí quy mô 4.000 tỷ đồng dọc theo bờ tây sông Hàn[215] hay công viên đại dương Sơn Trà được đầu tư 200 triệu đô la Mỹ[216]. Ngoài ra, Đà Nẵng còn có công viên Thanh niên nằm trên đường Cách mạng tháng Tám với diện tích 21 ha, thuộc địa bàn phường Hòa Cường Nam, quận Hải Châu và phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, trong đó có một hồ điều hòa rộng hơn 9 ha là địa điểm khu vui chơi giải trí cho các hoạt động thanh, thiếu nhi cũng như người dân thành phố như cắm trại, sinh hoạt Đoàn-Đội.


Thể dục - thể thao[sửa | sửa mã nguồn]


Với vai trò là trung tâm của khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Đà Nẵng là nơi tập trung các trung tâm huấn luyện, đào tạo thể thao thành tích cao cùng các công trình thể thao quan trọng của khu vực và cả nước. Điển hình là Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia III, Trung tâm Thể thao Quốc phòng III và Trường Đại học Thể dục Thể thao Đà Nẵng. Ngoài ra còn có Làng vận động viên và Khu tập luyện bóng đá rộng gần 8 ha, hay Khu thể thao thành tích cao rộng 7 ha, nằm ở khu đô thị mới Tuyên Sơn - Hòa Cường.

Thành tích của các vận động viên Đà Nẵng đà liên tục được cải thiện qua kỳ thi đấu. Từ năm 2000 đến năm 2010, tại các giải quốc gia, các vận động viên của thành phố đạt được tổng cộng 3.596 huy chương, trong đó có 1.026 huy chương vàng, 1.158 huy chương bạc và 1.402 huy chương đồng. Cũng trong giai đoạn 2000-2010, tại các giải khu vực và quốc tế, vận động của thành phố đạt được tổng cộng 182 huy chương, trong đó có 90 vàng, 47 bạc và 45 đồng. Nếu như tại Đại hội thể dục thể thao lần thứ III năm 1995, Đoàn Đà Nẵng xếp ở vị trí 28/52 thì ở Đại hội lần thứ VI năm 2010, thành phố đã ở vị trí 4/66.[217] Đà Nẵng có những vận động viên xuất sắc và hàng đầu ở một số môn như vận động viên karatedo Vũ Kim Anh (gốc Hải Phòng)và vận động viên bơi lội Hoàng Quý Phước.[218]

Câu lạc bộ bóng đá Đà Nẵng có tiền thân là đội bóng đá Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng rồi đội bóng đá Quảng Nam-Đà Nẵng. Vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, Quảng Nam-Đà Nẵng là một câu lạc bộ mạnh, đỉnh cao là khi vươn tới chức vô địch quốc gia năm 1992 cùng ba lần giành ngôi á quân vào các năm 1987, 1990 và 1991. Đến trước mùa giải 2008, câu lạc bộ bóng đá Đà Nẵng đổi tên thành SHB Đà Nẵng sau khi Sở thể dục thể thao Thành phố Đà Nẵng chuyển giao đội bóng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội. SHB Đà Nẵng từng sở hữu sân vận động Chi Lăng với sức chứa 30.000 ngàn người và được xem là một trong những sân vận động lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay toàn bộ khu đất rộng 5,5 ha trong đó có sân vận động Chi Lăng đã được bán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tập đoàn Thiên Thanh.[219]

Thể thao phong trào ở Đà Nẵng còn rất hạn chế. Số công trình thể thao phục vụ nhu cầu rèn luyện sức khỏe của người dân tại các quận nội thành chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu tập trung tại các bãi biển.[220] Trong số sáu quận nội thành, mới chỉ có quận Sơn Trà được đầu tư xây dựng nhà tập luyện, quận Ngũ Hành Sơn có sân vận động còn những nơi khác vẫn chưa được đầu tư đầy đủ. Dù thành phố có các công trình thể thao đúng chuẩn như Cung thể thao Tiên Sơn, Câu lạc bộ Bơi lặn, Câu lạc bộ Đua thuyền Đồng Nghệ, Trung tâm Thể dục thể thao người cao tuổi, nhà tập luyện taekwondo nhưng có những công trình vẫn chưa được sử dụng hết công năng, gây lãng phí và thất thoát lớn.[220]

Đà Nẵng là thành phố đầu tiên của Việt Nam tổ chức thành công Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á 2016.[221]


Làng nghề[sửa | sửa mã nguồn]


Một cơ sở chế tác đá mỹ nghệ ở làng nghề Non Nước

Trải qua những thử thách khốc liệt của thời gian, chiến tranh loạn lạc những làng nghề Đà Nẵng vẫn giữ cho mình nét hồn hậu, chân chất. Hết đời nọ đến đời kia, họ sống với nghề không chỉ bởi miếng cơm, tấm áo mà còn vì cái tâm của con người trên mảnh đất đã nuôi sống họ. Đà Nẵng có một số làng nghề truyền thống. Nổi tiếng nhất là làng đá mỹ nghệ Non Nước. Làng đá nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải - quận Ngũ Hành Sơn. Nghề chế tác đá ở đây được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân đến từ Thanh Hóa tên là Huỳnh Bá Quát sáng lập.[222] Từ vật liệu là đá cẩm thạch, những nghệ nhân nơi đây chế tác các tác phẩm tượng Phật, tượng người, tượng thú, vòng đeo tay,...[222] Tuy nhiên sự phát triển nhanh của làng nghề trong những năm gần đây đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước uống do các hộ đều dùng axít để tẩy rửa và tạo độ bóng cho đá. Bên cạnh đó, bụi đá và tiếng ồn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.[223]

Làng chiếu Cẩm Nê nằm cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây nam thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng với các loại chiếu hoa truyền thống. Nghề chiếu Cẩm Nê có nguồn gốc từ Hoằng Hóa, Thanh Hóa theo chân các cư dân người Việt đến cư trú ở vùng đất này vào thế kỷ XV. Chiếu hoa Cẩm Nê đã từng được hiện diện trong cung vua nhà Nguyễn; những nghệ nhân Cẩm Nê xưa cũng đã từng được các triều đại vua sắc phong, ban thưởng. Chiếu Cẩm Nê có ưu điểm là viền chiếu được gấp kỹ hơn, dày hơn, bền hơn, nằm êm lưng hơn so với chiếu của các địa phương khác.[224] Mùa hè nằm chiếu thấy mát; mùa đông nằm ấm và tỏa hương đồng cỏ nội dịu nhẹ.[225]

Gắn với nghề cá và truyền thống đi biển của ngư dân, ở Đà Nẵng còn có làng nghề nước mắm Nam Ô được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Nam Ô là làng đánh cá nhỏ nằm ở cửa sông Cu Đê, nay thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu. Đặc trưng nhất của nước mắm Nam Ô là được chế biến từ cá cơm than,[226] đánh bắt vào tháng ba âm lịch. Chum để muối cá phải bằng gỗ mít, dưới đáy chum phải chèn sạn, chổi đót và phải lọc nước mắm bằng chuộc mới đảm bảo nước mắm tinh chất, thơm đậm. Muối ướp cá phải là muối lấy từ Nha Trang (Khánh Hòa), Quảng Ngãi và Bình Thuận. Hạt muối phải trắng tinh, to, già, được nắng, không bị nước mưa, mang về đổ trên nền xi măng khô ráo bảy ngày cho chảy hết chất nước đắng, sau đó cho vào vại cất vài năm rồi mới đem ra làm. Một chum 200–300 kg cá, sau 12 tháng cho ra 100-150 lít nước mắm loại 1. Còn lại là nước mắm loại 2 và loại 3.[227] Sau một thời gian bị mai một bởi nghề làm pháo thì vào năm 2006, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ 12 tỷ đồng để phục hồi làng nghề.[228]


Lễ hội[sửa | sửa mã nguồn]


Các lễ hội truyền thống của Đà Nẵng đã có từ rất xưa và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Lễ hội của ngư dân Đà Nẵng được gọi là lễ hội Cá Ông. "Ông" là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn trên biển cả. Lễ tế cá ông thường được lồng ghép dưới hình thức lễ hội cầu ngư và lễ ra quân đánh bắt vụ cá nam. Tại Đà Nẵng, lễ hội được tổ chức trong hai ngày vào trung tuần tháng 3 âm lịch ở những vùng ven biển như Mân Thái, Thọ Quang, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Hòa Hiệp,... Trong ngày lễ, bên cạnh việc cúng tế cầu mong một mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn, dân làng còn làm lễ rước trên biển. Trong phần hội, có các trò chơi dân gian đặc trưng của vùng biển như lắc thúng, đua thuyền, bơi lội, kéo co...Một hình thức múa hát đặc trưng diễn ra trong lễ hội là múa hát bả trạo diễn tả tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong một con thuyền, vượt qua sóng to gió cả, mang về một mùa bội thu cho ngư dân.[229]


Màn trình diễn của đội Nga trong Lễ hội pháo hoa năm 2013

Lễ hội lớn nhất ở Đà Nẵng là lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960.[230] Sau một thời gian bị gián đoạn, lễ hội được khôi phục từ năm 1991, đến năm 2000 thì được công nhận là lễ hội cấp quốc gia và hiện là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước.[231] Lễ hội được tổ chức vào các ngày từ 17 - 19 tháng 2 âm lịch hàng năm[232] diễn ra tại Chùa Quán Thế Âm, nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trong phần lễ, đặc sắc nhất là lễ rước tượng Quán Thế Âm. Ngoài ra còn có hội hoa đăng, hội đua thuyền truyền thống, biểu diễn võ thuật, chơi hô hát Bài Chòi[233]...Mặc dù Ủy ban nhân dân thành phố đã có nhiều biện pháp chấn chỉnh nhưng trong lễ hội vẫn còn tình trạng người lang thang ăn xin, người mù bán hương xin ăn trá hình hay tình trạng trông giữ xe với giá quá cao.[234]

Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có một loạt các lễ hội gắn liền với các đình làng như: lễ hội đình làng Hòa Mỹ (quận Liên Chiểu)[235], đình làng An Hải (huyện Hòa Vang)[236], đình làng Túy Loan (huyện Hòa Vang),[237]... Các lễ hội này đều nhằm thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", cầu cho quốc thái dân an, nhân dân trong làng được hanh thông an lạc. Những năm gần đây, Đà Nẵng đã tạo cho mình những lễ hội mới như lễ hội đua thuyền được tổ chức vào ngày quốc khánh 2 tháng 9 hàng năm trên dòng sông Hàn. Lễ hội pháo hoa quốc tế được tổ chức vào dịp lễ 30 tháng 4 đã thu hút hàng nghìn người đến Đà Nẵng. Lễ hội pháo hoa năm 2013 đã có tới gần 400.000 lượt người đến thành phố.[238]


Ẩm thực[sửa | sửa mã nguồn]


Ẩm thực Đà Nẵng chịu ảnh hưởng của ẩm thực vùng ven biển miền Trung Việt Nam, đặc biệt là vùng đất xứ Quảng nhưng vẫn có những nét đặc trưng riêng. Gỏi cá Nam Ô gắn liền với tên làng biển Nam Ô. Cá để chế biến là cá mòi, cá tớp, cá cơm,...nhưng ngon nhất là cá trích. Trước khi ướp, cá được ép lấy nước để làm ráo cá và lấy nước cốt này làm món nước chấm. Rau ăn kèm với gỏi cá Nam Ô rất đa dạng và chỉ mọc trên đèo Hải Vân như cóc rừng, tim lan, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng,... đã mang lại hương vị riêng cho món gỏi cá sống.

Cẩm Lệ thuộc phường Khuê Trung, quận Hải Châu có món bánh khô mè nổi tiếng trong đó người đi "tiên phong" là bà Huỳnh Thị Điểu, thường gọi là bà Liễu. Bánh khô mè được làm từ bột gạo, bột nếp, đường kính, gừng, và mè. Bột gạo pha với bột nếp được cho vào khuôn, hấp cách thủy, nướng khô, "tắm" đường, "tắm" mè,...Ruột bánh xốp giòn, đường dẻo, mè chín thơm, thường được người dân dâng cúng ông bà tổ tiên[225] trong những ngày giỗ tết. Hiện nay bánh được sản xuất, tiêu thụ quanh năm cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó còn có bánh tráng Túy Loan. Theo phong tục của người dân Túy Loan cứ mỗi dịp lễ tết nhất là những ngày giỗ kỵ bánh tráng là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng gia tiên.

Ngoài ra ở Đà Nẵng còn có nhiều món ăn ngon tuy không gắn liền với tên một địa danh cụ thể nhưng vẫn mang những nét đặc trưng riêng như món mì Quảng Đà Nẵng, bánh xèo Đà Nẵng, bánh tráng cuốn thịt heo, thịt bê thui, bún chả cá, bún mắm, mít trộn, ốc hút, bò né,...


Một số bài hát về Đà Nẵng[sửa | sửa mã nguồn]















































Bài hát
Tác giả - Nhạc sĩ
Ca sĩ thể hiện
Thể loại
Đà Nẵng Quê Ta Giải Phóng Rồi
Nguyễn Đức Toàn
Bích Liên
Cách Mạng
Cô Du Kích Đà Nẵng
Thanh Anh
Kim Oanh
Cách Mạng
Sông Hàn Vang Tiếng Hát
Huy Du
NSƯT Kiều Hưng
Cách Mạng
Đà Nẵng Thành phố Tôi Yêu
Thanh Anh
Phi Thúy Hạnh
Trữ Tình
Đà Nẵng Tình Người
Đình Thậm
Anh Thơ
Trữ Tình
Chiều Đà Nẵng
Trần Hoàn
Phương Anh
Trữ Tình
Đà Nẵng Thành phố Tuổi Thơ Tôi

Trọng Tấn
Trữ Tình
Đà Nẵng Yêu Thương

An Thuyên
Trữ Tình


Trong nước:
  • Việt Nam Hải Phòng (ở Đà Nẵng có 1 đường tên là Hải Phòng và ngược lại, ở Hải Phòng cũng có 1 đường tên Đà Nẵng). Có câu "Hải Phòng - Đà Nẵng, nặng lòng tình nghĩa" dùng để chỉ về sự kết nghĩa của hai thành phố anh em này.

Quốc tế:[239]


Một số nhân vật người Đà Nẵng nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]


Chính trị[sửa | sửa mã nguồn]


  • Phan Diễn: Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII và IX, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Đà Nẵng, nguyên Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX.

  • Nguyễn Bá Thanh: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội Việt Nam, Phó trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - trực thuộc Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Đà Nẵng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Nẵng.

  • Hồ Nghĩa Dũng: Nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

  • Trương Quang Nghĩa: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Thành ủy Thành phố Đà Nẵng.

Quân sự[sửa | sửa mã nguồn]



Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]



Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]



  • Phan Huỳnh Điểu: nhạc sĩ tiêu biểu của nền âm nhạc đương đại Việt Nam với những đóng góp to lớn cho sự phát triển của âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ XX. Ông được mệnh danh là "Con chim vàng của nền âm nhạc Việt Nam".

  • Huỳnh Thị Bảo Hòa: Nữ sĩ Việt Nam thời hiện đại, là một trong số ít tác giả nữ đầu tiên viết tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ, người phụ nữ thuộc hàng tiên phong trong phong trào Duy Tân ở Việt Nam.

  • Lưu Quang Vũ: nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam.

  • Mỹ Tâm (tên thật: Phan Thị Mỹ Tâm): ca sĩ.

  • Kasim Hoàng Vũ: ca sĩ.

  • Nam Cường (tên thật: Nguyễn Nam Cường): ca sĩ.

  • Only C (tên thật: Nguyễn Phúc Thạch): nhạc sĩ, ca sĩ.

  • Lê Cát Trọng Lý: ca sĩ, nhạc sĩ.

  • Don Nguyễn (tên thật: Nguyễn Đức Chung): ca sĩ, nghệ sỹ.

  • Lê Hoàng: ca sĩ, thành viên của nhóm nhạc nam The Men.

  • Thanh Hằng (tên thật: Phạm Thị Thanh Hằng): siêu mẫu, diễn viên, ca sĩ.

  • Trang Cherry (tên thật: Hoàng Thị Thu Trang): diễn viên, đã từng tham gia bộ phim Việt Nam nổi tiếng Sống chung với mẹ chồng.

  • Trương Thế Vinh: diễn viên.

Hoa hậu[sửa | sửa mã nguồn]








  1. ^ Trong danh sách "Các tên gọi khác của Đà Nẵng" đăng trên trang Cổng thông tin dịch vụ hành chính công Đà Nẵng ngày 17 tháng 12 năm 2012 (bản lưu) thì phải hai năm sau (tức là khoảng năm 1947) thì thành phố mới đổi lại tên Đà Nẵng.

  2. ^ Thạch & Phạm (2002), tr. 14 ghi rằng: "chiếm trọn bán đảo Tiên Sa".

  3. ^ Sự đối lập giữa hai bên bờ sông hiện lên trong câu ca dao:
    "Đứng bên ni Hàn ngó bên tê Hàn, nước xanh như tàu lá.
    Đứng bên tê Hàn ngó bên ni Hàn, phố xá nghinh ngang".




Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]




  1. ^ a ă Nguyễn Quang Trung Tiến (ngày 9 tháng 3 năm 2009). “Phần 1: Bước khởi đầu quá trình đô thị hóa (1889-1899)”. 120 năm đô thị hóa ở miền Trung. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  2. ^ Cổng thông tin điện tử Chính phủ (Việt Nam). “Quyết định số 145/2003/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: QĐ công nhận thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I”. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  3. ^ “Nghị quyết 33/NQ-TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  4. ^ Tiến Dũng. “Đà Nẵng - Thành phố đáng sống nhất Việt Nam”. Cổng thông tin thành phố. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  5. ^ Nguyễn Huy; Trí Quân (ngày 26 tháng 1 năm 2012). “Thành phố đáng sống”. Tiền Phong Online. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  6. ^ “Đà Nẵng vào top 10 nơi đáng sống trên thế giới”. Báo Thanh niên. 7 tháng 2 năm 2018. 

  7. ^ “Names of Da Nang through periods of time” (bằng tiếng Anh). Danang People's Committee. Ngày 3 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2011. 

  8. ^ Bùi Minh Quốc. Hỏi đáp về Quảng Nam-Đà Nẵng (Questions and Answers about Quảng Nam-Đà Nẵng). 

  9. ^ Vũ Hùng (ngày 25 tháng 1 năm 2011). “Năm mới nói chuyện tên quê”. Những tên gọi về thành phố Đà Nẵng (Báo Đà Nẵng điện tử). 

  10. ^ Võ Văn Dật. “Địa danh Đà Nẵng”. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2013. 

  11. ^ Dương & ctg 2001, tr. 16

  12. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 10

  13. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 12

  14. ^ a ă Thạch & Phạm 2002, tr. 13


  15. ^ a ă Dương & ctg 2001, tr. 17

  16. ^ Ca dao:
    "Tai nghe súng nổ cái đùng,
    Tàu Tây đã lại Vũng Thùng hôm qua".


  17. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 11

  18. ^ Võ Văn Hoè (2011). Địa danh thành phố Đà Nẵng. Nhà xuất bản Đà Nẵng. 

  19. ^ Huỳnh Yên Trầm My, Trương Vũ Quỳnh (2010). Đà Nẵng toàn cảnh, A panorama of Danang. Nhà xuất bản Đà Nẵng. 

  20. ^ “Giới thiệu khái quát về thành phố Đà Nẵng”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (Việt Nam). Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013. 

  21. ^ “Chương 1 - Giới thiệu tổng quan về điều kiện tự nhiên thành phố Đà Nẵng” (PDF). Báo cáo Hiện trạng môi trường thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 - 2010 và định hướng đến năm 2015. Chi cục Bảo vệ môi trường (Đà Nẵng). Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. 

  22. ^ “第一节 西沙群岛的主要岛礁”. 海南史志网. 11 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2013. 

  23. ^ a ă Đặng ch.b 2012, tr. 9

  24. ^ Encyclopedia of European and Asian regional geology. Encyclopedia of Earth Sciences. Chapman & Hall Encyclopedia of Earth Sciences (bằng tiếng Anh) 19 (Springer). 1997. tr. 778. ISBN 0-412-74040-0. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2010. 

  25. ^ Nguyễn Thanh, Lương Tấn Lực. “Phân chia cấu trúc môi trường địa kỹ thuật...lãnh thổ thành phố Đà Nẵng” (PDF). Tạp chí Khoa học Đại học Huế tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013. 

  26. ^ “Giới thiệu tiềm năng Đà Nẵng”. Trang web của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013. 

  27. ^ a ă Lê Anh Thắng (2010). “Nghiên cứu, đánh giá tài nguyên thiên nhiên khu vực Đà Nẵng” (PDF). Luận văn thạc sĩ khoa học. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013. 

  28. ^ Đặng ch.b 2012, tr. 10

  29. ^ Đặng ch.b 2012, tr. 13

  30. ^ a ă â b “Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Đào tạo phải gắn liền với nhu cầu sử dụng nhân lực”. http://giaoduc.net.vn. Ngày 15 tháng 7 năm 2017. 

  31. ^ Đặng ch.b 2012, tr. 14

  32. ^ “Vietnam Building Code Natural Physical & Climatic Data for Construction” (PDF). Vietnam Institute for Building Science and Technology. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2018. 

  33. ^
    “Klimatafel von Dà Nang (Tourane) / Vietnam” (PDF). Baseline climate means (1961-1990) from stations all over the world. Deutscher Wetterdienst. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016. 


  34. ^ Lê Thông (Chủ biên), Hoàng Văn Chức, Lê Huỳnh... Tập 4: Các tỉnh và thành phố Duyên Hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Nhà xuất bản Giáo dục. 

  35. ^ “Giới thiệu tài nguyên”. Cổng thông tin thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013. 

  36. ^ Ngọc Phó. “Đà Nẵng: Đưa vấn đề thiếu nước ra Quốc hội”. Báo Thanh Tra điện tử. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. 

  37. ^ “Đà nẵng: Nguồn nước sinh hoạt nhiễm mặn”. Trang web của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. 

  38. ^ “Chương 2, Sức ép của phát triển kinh tế xã hội lên môi trường” (PDF). Công bố Báo cáo Hiện trạng môi trường thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005-2010 và định hướng đến năm 2015. Trang web của Chi cục bảo vệ môi trường Đà Nẵng. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. 

  39. ^ Hải Châu (ngày 6 tháng 7 năm 2012). “Ông Nguyễn Bá Thanh "lật tẩy" chuyện ô nhiễm môi trường ở Đà Nẵng”. Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông (Việt Nam). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. 

  40. ^ “Đà Nẵng đau đầu với nạn ô nhiễm môi trường”. Ngày 14 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013. , dẫn lại Thanh Niên Online

  41. ^ “Đà Nẵng – Thành phố môi trường”. Cổng thông tin điện tử Thành phố Đà Nẵng. 

  42. ^ Lâm Thị Mỹ Dung. “Đình Khuê Bắc hôm nay”. Trang web của Bảo tàng Nhân học. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  43. ^ “Di tích lịch sử, văn hóa: Đình làng Khuê Bắc”. Trang thông tin điện tử Quận Ngũ Hành Sơn. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  44. ^ Văn Nở (ngày 16 tháng 4 năm 2012). “Bài 1: Những giá trị nghìn năm”. Đà Nẵng-vùng hòa quyện văn hóa Việt-Chăm (Báo Đà Nẵng điện tử). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  45. ^ Trung Sáng (ngày 23 tháng 3 năm 2012). “Đà Nẵng và tiềm năng di sản khảo cổ học”. Báo Văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  46. ^ Nam Cường (ngày 29 tháng 8 năm 2012). “Phát lộ tháp Chăm lớn nhất”. Tiền Phong Online. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013. 

  47. ^ Uyên Châu - Vũ Trung (ngày 28 tháng 8 năm 2012). “Nhiều phát hiện bất ngờ tại tháp Chăm Phong Lệ”. Báo điện tử Vietnamnet. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013. 

  48. ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr. 122, 141.

  49. ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr. 34; Ngô Vǎn Doanh, Mỹ Sơn Relics, tr. 75-76.

  50. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 9, trích Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 90.

  51. ^ a ă “Giá trị di sản văn hóa Hán Nôm ở Đà Nẵng”. Trang web của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. , dẫn lại trang web danang.gov.vn

  52. ^ Văn Nở (ngày 17 tháng 4 năm 2012). “Tạo sơ sở pháp lý giữ gìn, trùng tu di tích”. Đà Nẵng, vùng hòa quyện văn hóa Việt - Chăm (Báo Đà Nẵng điện tử). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  53. ^ Dương Trung Quốc, Trần Hữu Đính, Nguyễn Văn Nhật,... “Đà Nẵng qua các tên gọi”. Lịch sử Thành phố Đà Nẵng. Nhà xuất bản Đà Nẵng 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013. 

  54. ^ Trow, Charles Edward (1905), “Chapter XXII”, The old shipmasters of Salem (bằng tiếng Anh), New York and London: G.P. Putnam's Sons, tr. 251–266, OCLC 4669778, Captain White's Journal 

  55. ^ a ă “Sơ lược Lịch sử thành phố Đà Nẵng”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  56. ^ Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn toàn tập, trang 119-120.

  57. ^ Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, trang 167.

  58. ^ Nguyễn 2002, tr. 59

  59. ^ Đặng Huyền Dung (ngày 9 tháng 6 năm 2012). “Cu Đê là chỗ nào?”. Báo Đà Nẵng điện tử. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013. 

  60. ^ Nguyễn Văn Quang (ngày 11 tháng 2 năm 2013). “Du lịch Huế, Quảng Nam và Đà Nẵng qua "Con đường Huyền Trân"”. Báo Lao động điện tử. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  61. ^ “Đà Nẵng - một cửa ngõ trọng yếu của quốc gia”. Lịch sử Đà Nẵng. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2013. 

  62. ^ a ă TS. Nguyễn Hữu Tâm (Viện Sử học Việt Nam). “Triều Nguyễn quản lý và phòng thủ cảng biển Đà Nẵng”. Trang thông tin điện tử về Biên giới lãnh thổ. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  63. ^ Nguyễn Minh Phương. “Chính sách ngoại giao của Triều Nguyễn tại Đà Nẵng”. Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG TP. HCM. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  64. ^ Nguyễn 2002, tr. 87

  65. ^ Dương & ctg 2001, tr. 60

  66. ^ Dương & ctg 2001, tr. 64

  67. ^ Lưu 2005, tr. 66

  68. ^ Dương & ctg 2001, tr. 67-68

  69. ^ Dương & ctg 2001, tr. 70

  70. ^ “Xem thêm Chiến trận Đà Nẵng 1858-1860 và cuộc chiến đấu của quân dân Việt Nam”. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  71. ^ a ă “Pháp lập thành phố nhượng địa Đà Nẵng (3-10-1888)”. Những mốc son lịch sử. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  72. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. Lời mở đầu của Nhà xuất bản Đà Nẵng

  73. ^ “Đà Nẵng trở thành thành phố nhượng địa của thực dân Pháp”. Lịch sử thành phố Đà Nẵng. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2013. 

  74. ^ a ă Thạch & Phạm 2002, tr. 312

  75. ^ a ă â “Tổng quan về Đà Nẵng”. Theo Đà Nẵng toàn cảnh. Nhà xuất bản Đà Nẵng, 3. 2010. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  76. ^ a ă Thạch & Phạm 2002, tr. 14

  77. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 313

  78. ^ Dương & ctg 2001, tr. 80-81

  79. ^ Dương & ctg 2001, tr. 82

  80. ^ Dương & ctg 2001, tr. 72, dẫn lại Võ Văn Dật (1974), Lịch sử Đà Nẵng (tiểu luận Cao học Sử), bản in ronéo, tập 2, tr. 23

  81. ^ Chemillier-Gendreau 2000, tr. 37

  82. ^ a ă Nguyễn 2002, tr. 103

  83. ^ Chemillier-Gendreau 2000, tr. 39

  84. ^ Việt Nam Cộng hòa bản đồ hành chánh. Đà Lạt: Phân cục Địa dư Quốc gia, 1967.

  85. ^ Ng Shui Meng. The Population of Indochina. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1974. Tr 105

  86. ^ a ă Dương & ctg 2001, tr. 203

  87. ^ John Edmund Delezen (2003). Eye of the tiger: memoir of a United States marine, Third Force Recon Company, Vietnam (bằng tiếng Anh). McFarland. tr. 54. ISBN 0-7864-1656-4. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2010. 

  88. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 317

  89. ^ Dương & ctg 2001, tr. 268

  90. ^ Dương & ctg 2001, tr. 264

  91. ^ Dương & ctg 2001, tr. 265

  92. ^ Nguyễn 2002, tr. 109

  93. ^ Chemillier-Gendreau 2000, tr. 125

  94. ^ Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành

  95. ^ Nghị định 7/1997/NĐ-CP về việc thành lập đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng

  96. ^ “Quyết định số 145/2003/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: QĐ công nhận thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (Việt Nam). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  97. ^ “Nghị định số 102/2005/NĐ-CP của Chính phủ: Nghị định thành lập phường, xã thuộc quận Thanh Khê và huyện Hoà Vang; thành lập quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (Việt Nam). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  98. ^ “Thành phố 5 không từ ý tưởng đến hiện thực”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  99. ^ “Thành phố 3 có”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2013. 

  100. ^ “Thu nhập bình quân của Đà Nẵng”. 

  101. ^ “Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982”. Cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp (Việt Nam). Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  102. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LB18

  103. ^ Phú Nguyện. “Chính quyền thành phố Đà Nẵng phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa”. Trang web của Sở Nội vụ thành phố Đà nẵng. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013. 

  104. ^ Lê Gia Lộc (ngày 16 tháng 4 năm 2011). “Bến tàu của những hãng buôn”. Báo Đà Nẵng điện tử. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  105. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 6

  106. ^ Lê Gia Lộc (ngày 22 tháng 4 năm 2011). “Phố cổ bên tả ngạn sông Hàn”. Hồ sơ đường Bạch Đằng (Báo Đà Nẵng điện tử). Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  107. ^ Thạch & Phạm 2002, tr. 7

  108. ^ Triệu Tùng (ngày 17 tháng 8 năm 2011). “Đô thị Đà Nẵng hiện đại trong không gian xanh”. Báo Đà Nẵng điện tử. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  109. ^ Nguyễn Thế Thịnh (ngày 31 tháng 3 năm 2013). “Tám chuyện cầu Rồng”. Báo Thanh Niên Online. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  110. ^ “Đà Nẵng quy hoạch đô thị hướng ra sông, biển”. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. , theo Báo Đầu tư

  111. ^ “Định hướng quy hoạch chung đến năm 2030 và những thách thức về giao thông đô thị”. Sở xây dựng Đà Nẵng. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  112. ^ “Điều chỉnh Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng”. Báo điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  113. ^ Triệu Tùng (ngày 8 tháng 3 năm 2012). “Quy hoạch và đầu tư công trình giao thông ngầm”. Báo điện tử Đà Nẵng. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013. 

  114. ^ Thủ tướng Chính phủ. “Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ: Về việc phân loại đô thị ở Việt Nam”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2009. 

  115. ^ “DANH SÁCH ỦY VIÊN ỦY BAN MTTQ VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG KHÓA X, NHIỆM KỲ 2014-2019”. TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2017. 

  116. ^ “BAN THƯỜNG TRỰC ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG KHÓA X, NHIỆM KỲ 2014-2019”. TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ UỶ BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2017. 

  117. ^ Đơn vị hành chính, Đất đai và Khí hậu, Niên giám thống kê 2011, Tổng cục Thống kê (Việt Nam)

  118. ^ “Theo Báo Đời Sống Pháp Luật (28-1-2015)”. 

  119. ^ Dương & ctg 2001, tr. 336

  120. ^ Dương & ctg 2001, tr. 349

  121. ^ Dương & ctg 2001, tr. 357-358

  122. ^ a ă Phạm 2000, tr. 41

  123. ^ Dương & ctg 2001, tr. 386

  124. ^ Dương & ctg 2001, tr. 397

  125. ^ a ă Bùi 2008, tr. 91

  126. ^ “Báo Đà Nẵng”. 

  127. ^ “Báo cáo sơ bộ kinh tế - xã hội Đà Nẵng năm 2012 của Cục Thống kê Đà Nẵng”. Cục Thống kê Thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  128. ^ “Đề án giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012 - 2015 (Xem toàn văn đề án)”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  129. ^ Hồng Hạnh. “Đà Nẵng: Năm 2013 phấn đấu còn 7,5% hộ nghèo”. Báo điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  130. ^ Nguyễn Đông (ngày 4 tháng 12 năm 2012). “Đà Nẵng thất thu ngân sách vì suy thoái”. Báo Vnxpress. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  131. ^ Nguyễn Huy (ngày 1 tháng 1 năm 2013). “Lần đầu hụt thu ngân sách, Đà Nẵng 'lộ' kế sách vượt 'bão'”. Tiền Phong Online. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  132. ^ “Báo Đà Nẵng”. 

  133. ^ “Báo Đà Nẵng”. 

  134. ^ “Cơ cấu GDP thành phố Đà Nẵng theo ngành kinh tế”. Cổng thông tin thành phố. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  135. ^ “Đà Nẵng: Từ chối 2 dự án FDI khoảng 2,5 tỷ USD”. Báo Quân đội nhân dân Online. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  136. ^ “Nguyễn Kim xây Trung tâm Thương mại lớn nhất miền Trung”. Báo Diễn đàn Doanh nghiệp. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  137. ^ Thành Lân (ngày 29 tháng 9 năm 2010). “55 ngân hàng mở chi nhánh tại Đà Nẵng”. Báo Đà Nẵng điện tử. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010. 

  138. ^ “PCI 2011: Lào Cai và Bắc Ninh 'vượt vũ môn' ngoạn mục”. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012. 

  139. ^ PCI: Hồ sơ tỉnh - Đà Nẵng 2012 "Thứ hạng: 12, Điểm số: 61.71"

  140. ^ “Tình hình thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài vào Đà Nẵng năm 2012”. Khu công nghệ cao Đà Nẵng. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013. 

  141. ^ Nam Cường (ngày 29 tháng 3 năm 2013). “Trao 4 kỷ lục Guinness cho cáp treo Bà Nà”. Tiền Phong Online. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  142. ^ Vũ 2012, tr. 538

  143. ^ Hữu Trà (ngày 26 tháng 5 năm 2012). “Sôi động cuộc thi dù bay quốc tế”. Thanh Niên. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017. 

  144. ^ “Đà Nẵng - thành phố đáng sống”. Cổng thông tin du lịch thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  145. ^ Thanh Tân (ngày 30 tháng 1 năm 2013). “Du lịch tiếp tục là ngành mũi nhọn năm 2013”. Báo điện tử Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  146. ^ “Khách du lịch quốc tế đến Đà Nẵng tăng mạnh”. Báo Tổ quốc. 12 tháng 12 năm 2017. 

  147. ^ “Đà Nẵng vào TOP 10 điểm đến nghỉ dưỡng hàng đầu châu Á”. Tổng cục Du lịch. 18 tháng 11 năm 2016. 

  148. ^ “Đà Nẵng lọt danh sách những điểm đến nên ghé thăm trước khi trở nên quá nổi tiếng”. Báo Dân Việt. 13 tháng 2 năm 2018. 

  149. ^ “Đà Nẵng sẽ quy hoạch lại hệ thống khách sạn”. Báo Diễn đàn Doanh nghiệp. 31 tháng 1 năm 2018. 

  150. ^ “Nguồn cung căn hộ khách sạn Đà Nẵng giảm nhiệt”. TheLEADER. 10 tháng 2 năm 2018. 

  151. ^ “Năm 2013: Du lịch Đà Nẵng đặt mục tiêu 3 triệu lượt khách”. Báo điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  152. ^ “Đà Nẵng: Du lịch vẫn tăng trưởng mạnh dù khủng hoảng kinh tế”. Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông (Việt Nam). Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  153. ^ “Giới thiệu chung về cảng Đà Nẵng”. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  154. ^ “Cảng Đà Nẵng hoàn thành toàn diện kế hoạch năm 2012”. Trang web của Cảng Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  155. ^ “Quyết định Phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (Nhóm 3) đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”. Bộ Giao thông Vận tải (Việt Nam). Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  156. ^ “Cửa Hàng không quốc tế Đà Nẵng”. Tổng công ty cảng hàng không miền trung. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  157. ^ B.Vân; P. Nhung (ngày 24 tháng 11 năm 2015). “Sân bay Đà Nẵng đón hành khách thứ 6 triệu”. Người Lao Động. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017. 

  158. ^ Viễn thông (25 tháng 4 năm 2017). “Đua mở đường bay quốc tế đến Đà Nẵng - VnExpress Kinh doanh”. VnExpress. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017. 

  159. ^ “Đà Nẵng trên con đường di sản”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  160. ^ Kim Em - N.C.T. “Nối liền đường hầm xuyên đèo Hải Vân”. Tuổi Trẻ cuối tuần. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  161. ^ Tấn Việt (27 tháng 5 năm 2017). “Thông hầm chui phía Tây cầu Sông Hàn, xóa nỗi lo ùn tắc”. Báo Giao thông. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017. 

  162. ^ “Vì sao Đà Nẵng không tắc đường?”. Báo Xây dựng Online - Bộ Xây dựng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  163. ^ Chân Tâm. “Con đường Hoàng Sa - Trường Sa”. Báo điện tử Nông thôn Ngày Nay. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  164. ^ “Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009”. Tổng cục Thống kê (Việt Nam). Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2013. 

  165. ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, theo Tổng cục Thống kê (Việt Nam). Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  166. ^ a ă General Statistics Office (2012): Statistical Yearbook of Vietnam 2011. Statistical Publishing House, Hanoi

  167. ^ Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  168. ^ Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  169. ^ Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  170. ^ Dân số nam trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam.

  171. ^ Dân số nữ trung bình phân theo địa phương

  172. ^ Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương, theo Tổng cục Thống kê (Việt Nam).

  173. ^ “Một số thông tin cơ bản về Đà Nẵng”. Trang tin điện tử của Ủy ban Dân tộc. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  174. ^ a ă Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam, Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  175. ^ “Kỷ Niệm 100 Năm Tin Lành Truyền Đến Thành phố Đà Nẵng”. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013. 

  176. ^ “Số cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  177. ^ “Số cán bộ ngành Y trực thuộc sở Y tế phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013. 

  178. ^ “Tôn vinh những tấm gương tận tuỵ vì sức khoẻ nhân dân”. Sở y tế thành phố. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013. 

  179. ^ “Báo Đầu tư”. 

  180. ^ “Các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, Trung học phổ thông)”. 

  181. ^ Thống kê về Giáo dục Việt Nam, Niên giám thống kê 2011, Theo tổng cục thống kê Việt Nam, Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013.

  182. ^ “Số trường học, lớp học, giáo viên và học sinh mẫu giáo tại thời điểm 30/9 phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  183. ^ “Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  184. ^ Đoàn Cường (ngày 7 tháng 5 năm 2013). “Đà Nẵng siết chặt học trái tuyến”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2013. 

  185. ^ “Số giáo viên, số sinh viên đại học và cao đẳng phân theo địa phương”. Tổng cục Thống kê. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  186. ^ “Báo Tuổi Trẻ”. 

  187. ^ “Theo VOV”. 

  188. ^ “Báo Đầu tư”. 

  189. ^ a ă “Trang thông tin điện tử Đà Nẵng”. 

  190. ^ “Chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng: Từng mét đất của Đà Nẵng được báo chí “soi” rất kỹ”. Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG. 7 tháng 7 năm 2017. 

  191. ^ “Danh sách các cơ quan báo chí tại Đà Nẵng”. Sở thông tin và Truyền thông Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  192. ^ “Trong lịch sử của ngành Xuất bản VN, hoạt động ngành in - xuất bản Đà Nẵng đã góp những trang đáng tự hào và rất đặc biệt !”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  193. ^ “Báo cáo Tổng kết hoạt động năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2013” (PDF). Sở Thông tin và Truyền thông Đà Nẵng. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2013. 

  194. ^ Ngô Thị Kim Cúc (ngày 14 tháng 7 năm 2005). “Trao đổi với Giám đốc Nhà xuất bản Đà Nẵng: Một phần diện mạo văn hóa của Đà Nẵng”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  195. ^ Hoàng Phương (ngày 10 tháng 12 năm 2008). “Nhà xuất bản Đà Nẵng bị tạm đình chỉ hoạt động”. Báo điện tử Gia đình & Xã hội. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  196. ^ Bửu Lân (ngày 5 tháng 6 năm 2009). “Nhà xuất bản Đà Nẵng được phép hoạt động trở lại”. Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  197. ^ “Khánh thành Công viên Phần mềm Đà Nẵng”. Báo Người Lao Động. 30 tháng 4 năm 2010. 

  198. ^ “Đà Nẵng: Chính sách đầu tư CNTT cần có trọng tâm, trọng điểm”. ictnews. 27 tháng 10 năm 2017. 

  199. ^ “Đà Nẵng: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm đạt 67 triệu USD”. Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng. 15 tháng 1 năm 2018. 

  200. ^ “Công viên phần mềm Đà Nẵng được công nhận Khu CNTT tập trung”. BÁO ĐIỆN TỬ CỦA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. 13 tháng 12 năm 2017. 

  201. ^ “VNPT sắp khai thác tuyến cáp quang mới APG”. Báo Đầu tư. 10 tháng 12 năm 2016. 

  202. ^ “Giới thiệu nhà hát Trưng Vương”. Trang chủ nhà hát. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  203. ^ “Giới thiệu về nhà hát tuồng thành phố”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  204. ^ “Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh”. Cổng thông tin du lịch thành phố. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  205. ^ “Nhà hát tuồng”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  206. ^ Kelly, Kristin. The Extraordinary Museums of Southeast Asia. Hong Kong: Harry Abrams, 2001. tr. 156

  207. ^ “Lịch sử Bảo tàng điêu khắc chăm”. Trang chính thức của Bảo tàng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  208. ^ “Đề án Quy hoạch hệ thống các bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  209. ^ “Sẽ khởi công xây dựng thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng vào cuối năm 2012”. Viện nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  210. ^ “Báo Người Lao động”. 

  211. ^ “Giới thiệu về MegaStar - Vĩnh Trung Plaza”. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2013. 

  212. ^ “Asia Park – Khám phá châu Á kỳ thú”. 

  213. ^ “Công viên Biển Đông – Công viên Hoà bình và Tình yêu”. Hội kiến trúc sư thành phố. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  214. ^ “Đà Nẵng xây công viên giải trí 4.000 tỉ”. Infonet-Báo điện tử của Bộ thông tin truyền thông. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  215. ^ “Đà Nẵng: Xây dựng các công viên vui chơi giải trí đẳng cấp quốc tế”. Trang web của Tổng cục Du lịch. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2013. 

  216. ^ “Biểu thành tích của Đoàn thể thao Đà Nẵng”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  217. ^ “Phê duyệt Chiến lược phát triển thể thao thành tích cao thành phố Đà Nẵng đến năm 2020”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  218. ^ Đăng Nam; Việt Hùng (ngày 6 tháng 6 năm 2011). “Bán rẻ đất "vàng"”. Chuyên trang địa ốc của Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  219. ^ a ă Đông Nghi (ngày 14 tháng 12 năm 2012). “Công trình thể thao biến thái - Lãng phí ở Đà Nẵng”. Chuyên trang thể thao của Thanh Niên Online. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2013. 

  220. ^ Trần Khánh; Hoàng Yến. “Bế mạc Đại hội Thể thao bãi biển châu Á lần 5 (ABG 5): 'Ngả mũ' trước chiến tích của chủ nhà”. Thể thao & Văn hóa (Thông tấn xã Việt Nam). Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2017. 

  221. ^ a ă Vũ 2012, tr. 526

  222. ^ Hải Châu (ngày 6 tháng 12 năm 2004). “Đà Nẵng: Làng nghề ô nhiễm... bụi đá!”. Báo điện tử Vietnamnet. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  223. ^ “Làng chiếu Cẩm Nê”. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  224. ^ a ă Vũ 2012, tr. 527

  225. ^ Hữu Cường (ngày 8 tháng 5 năm 2012). “Vui buồn ở làng nước mắm Nam Ô”. Báo Sức khỏe Đời Sống, Bộ Y tế (Việt Nam). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  226. ^ “Làng nghề nước mắm Nam Ô”. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2013. 

  227. ^ “12 tỉ đồng phục hồi làng nghề nước mắm Nam Ô”. Sở Kế hoạch Đầu tư Đà Nẵng. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  228. ^ “Đà Nẵng: Lễ hội Cầu ngư”. Trang web của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  229. ^ “Đà Nẵng: Lễ hội Quan Thế Âm”. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  230. ^ Nguyễn Tú (ngày 30 tháng 3 năm 2013). “Hàng ngàn người đổ về khai hội Quán Thế Âm”. Thanh Niên Online. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013. 

  231. ^ TTXVN (ngày 30 tháng 3 năm 2013). “Khai mạc Lễ hội Quán Thế Âm-Ngũ Hành Sơn 2013”. VietnamPlus, TTXVN. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  232. ^ Huy Yến (ngày 13 tháng 4 năm 2013). “Lễ hội Quán Thế Âm - Ngũ Hành Sơn: Mang đậm văn hóa dân tộc Việt”. Đại đoàn kết. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  233. ^ Nguyễn Tú (ngày 31 tháng 3 năm 2013). “Hàng ngàn người dự lễ vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm”. Thanh Niên Online. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  234. ^ “Lễ hội đình làng Hòa Mỹ”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  235. ^ “Lễ hội đình làng An Hải”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  236. ^ “Lễ hội đình làng Túy Loan”. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  237. ^ Khánh Hiền (ngày 2 tháng 5 năm 2013). “Gần 400.000 lượt khách đến Đà Nẵng dịp lễ hội pháo hoa”. Báo điện tử Dân trí. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2013. 

  238. ^ Hợp tác song phương, Sở Ngoại vụ Thành phố Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  239. ^ “Marzuki: hubungan Indonesia-Vietnam harus ditingkatkan”. Antara (Thông tấn xã Indonesia). Ngày 5 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  240. ^ Thành phố Oakland - Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Sở Ngoại vụ - Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  241. ^ “Oakland Sister Cities Program” (bằng tiếng Anh). Trang web của thành phố Oakland. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  242. ^ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Sở Ngoại vụ - Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.

  243. ^ “Pittsburgh Mayor Luke Ravenstahl's Photo Gallery” (bằng tiếng Anh). Trang web của thành phố Oakland. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  244. ^ “高雄市姊妹市”. Trang chủ của thành phố Cao Hùng. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  245. ^ “山东省友好省州”. Trang chủ của tỉnh Sơn Đông. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  246. ^ “Kawasaki City: Open to the World” (bằng tiếng Anh). Trang web của thành phố Kawasaki. Ngày 14 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013. 

  247. ^ Thành phố Kawasaki - Nhật Bản, Sở Ngoại vụ - Đà Nẵng. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2013.


Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]



  • Bùi, Đức Hùng (2008), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển công nghiệp thành phố Đà Nẵng, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội 

  • Chemillier-Gendreau, Monique (2000), Sovereignty Over the Paracel and Spratley Islands (bằng tiếng Anh), Den Haag: Kluwer Law International, ISBN 978-90-411-1381-8 

  • Dương, Trung Quốc; Trần, Hữu Đính; Nguyễn, Văn Nhật; Nguyễn, Tố Uyên; Ngô, Văn Minh (2001), Lịch sử thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng 

  • Đặng, Công Ngữ (chủ biên) (2012), Kỷ yếu Hoàng Sa, Hà Nội: Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông 

  • Lưu, Anh Rô (2005), Đà Nẵng buổi đầu đánh Pháp (1858-1860), Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng 

  • Nguyễn, Nhã (2002), Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (luận án tiến sĩ), Thành phố Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) 

  • Phạm, Kiều Đa (2000), “Ngành công nghiệp thành phố Đà Nẵng 25 năm qua (1975-2000)”, trong Nguyễn Hoàng Long; Bùi Công Minh; Hoàng Hương Việt; Nguyễn Đức Hùng, Đà Nẵng thành tựu và triển vọng = Đà Nẵng Achievements and Prospects, Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng 

  • Thạch, Phương; Phạm, Ngô Minh (2002), Đường phố Đà Nẵng, Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng 

  • Vũ, Thế Bình (2012), Non nước Việt Nam (ấn bản 12), Hà Nội: Sách hướng dẫn du lịch/Nhà xuất bản Thống Kê 




  • Thạch Phương, Nguyễn Đình An (chủ biên) (2010). Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 

  • Trần Quốc Vượng, Nguyễn Văn Xuân, Đỗ Bang & nhiều tác giả (2000). Đà Nẵng bước vào thế kỷ XXI. TP.Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn Nghệ. 

  • Lưu Trang (2005). Phố cảng Đà Nẵng: Từ 1802 đến 1860. Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng. 

  • Võ Văn Hoè (2011). Địa danh thành phố Đà Nẵng. Nhà xuất bản Đà Nẵng. 





















Comments